Đó là:
- Việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nước ngoài do môi trường pháp lý và thể chế kinh tế thị trường của nước ta được hoàn thiện hơn, thị trường xuất khẩu được mở rộng.
- Năm 2007 toàn dân đã bầu ra Quốc hội mới (Quốc hội khoá XII), mặt khác, hiện nay các đại biểu Quốc hội đã bầu ra một Chính phủ mới với Bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành sẽ được điều chỉnh theo hướng hoàn thiện hơn, phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới.
- Tình hình chính trị ổn định, nền kinh tế tăng trưởng nhanh cùng với các hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực trong năm 2007 của Việt Nam sẽ tiếp tục củng cố lòng tin và làm gia tăng mối quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta trong thời gian tới. Các đối tác lớn, nhất là Nhật Bản và Hoa Kỳ đã có cách nhìn mới về Việt Nam. Việc Nhật Bản và Việt Nam đang xây dựng quan hệ đối tác chiến lược và việc Hoa Kỳ thông qua PNTR với Việt Nam sẽ tạo tiền đề thúc đẩy đầu tư từ hai nền kinh tế hàng đầu thế giới này vào Việt Nam.
- Việc phân cấp triệt để hoạt động đầu tư nước ngoài và cấp Giấy chứng nhận đầu tư, kinh doanh về các địa phương sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút và quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng do được đầu tư trong các năm qua tiếp tục được cải thiện; nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng tiếp tục gia tăng.
- Hoạt động XTĐT của cả nước được đúc kết qua thời gian với sự hỗ trợ về kinh phí của Chính phủ sẽ được nâng tầm cao hơn trước, tăng tính hiệu quả trong năm 2008 và các năm tới.
- Xu hướng đầu tư vào các nền kinh tế mới nổi sẽ tiếp tục gia tăng. Các tập đoàn lớn sẽ tiếp tục thực hiện chiến lược đầu tư dài hạn, phân bổ nguồn vốn đầu tư từ Trung Quốc sang một số nước khác trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, vẫn còn đó một số khó khăn: cạnh tranh giữa các quốc gia nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài do cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ tác động tới hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tổ chức bộ máy, trình độ nghiệp vụ của cán bộ tại các địa phương còn bất cập so với yêu cầu của tình hình mới.
- Tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề và các chức danh quản lý khó có thể được khắc phục sớm do cần phải có thời gian. Tình trạng đình công vẫn có khả năng xảy ra nếu công tác nâng cao nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động cũng như các biện pháp khác không được thực thi có hiệu quả...
- Hệ thống kết cấu hạ tầng của nước ta nhất là khả năng cung cấp điện, cấp thoát nước, giao thông đường bộ, hàng hải… có khả năng sẽ quá tải gây ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Cải cách thủ tục hành chính và công tác chống tham nhũng tuy đã tiến hành tích cực nhưng còn rất nhiều vấn đề cần được xử lý để đáp ứng yêu cầu đề ra.
Mục tiêu thu hút ĐTNN
Căn cứ các yếu tố thuận lợi và khó khăn trong bối cảnh mới, dự kiến một số chỉ tiêu cơ bản về đầu tư nước ngoài năm 2008 như sau:
- Về thu hút vốn đầu tư mới: đạt khoảng 14,5 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2007.
- Vốn thực hiện: 5,2 tỷ USD, tăng 15,6% so với năm 2007.
- Doanh thu: 38,75 tỷ USD, tăng 16,5 % so với năm 2007.
- Xuất khẩu: 24,3 tỷ USD (trừ dầu thô), tăng 21,5% so với năm 2007.
- Nhập khẩu: 27,4 tỷ USD tăng 30,5% so với năm 2007.
- Lao động: 16 vạn người, tăng 6,7% so với năm 2007.
- Nộp ngân sách Nhà nước: 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007
Một số giải pháp, chính sách thực hiện mục tiêu kế hoạch 2008.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và triển khai có hiệu quả các đạo luật mới như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, sửa đổi Luật Thuế, Luật Ngân hàng, Bảo hiểm, Sở hữu trí tuệ, Hải quan…
- Điều chỉnh các cam kết về mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ theo đúng các cam kết của WTO.
- Điều chỉnh quy hoạch các ngành cho phù hợp với các thỏa thuận và cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập.
- Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành với các nhà đầu tư nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang hoạt động, đảm bảo các dự án hoạt động có hiệu quả, đúng tiến độ và nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tu kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các hiệp hội doanh nghiệp thông qua các hoạt động của Nhóm M & D, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam...
- Ban hành Thông tư hướng dẫn một số nội dung chưa rõ ràng, cụ thể tại NĐ số 108/2006/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư.
- Xây dựng, củng cố hệ thống quản lý thông tin đầu tư nước ngoài, kết nối các đầu mối quản lý đầu tư tại địa phương để đảm bảo tốt chính sách hậu kiểm.
- Thực hiện từng bước minh bạch hoá chính sách, thủ tục đầu tư; công khai hoá các bước của quá trình cấp GCNĐT lên mạng.
- Đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư trên cơ sở đa dạng hoá các phương thức xúc tiến đầu tư .
+ Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý đầu tư nước ngoài.
+ Thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm. Ngoài ra, đề nghị UNIDO xem xét nối lại chương trình cử đại diện Việt Nam tại Văn phòng xúc tiến đầu tư của UNDO (IPS) tại một số nước và khu vực trọng điểm (Nhật Bản, Pháp, Hàn Quốc, Áo, Italia, Hoa Kỳ);
+ Nâng cấp trang thông tin website giới thiệu về đầu tư nước ngoài. Trang web cần được thiết kế khoa học bằng tiếng Anh, tiếng Hoa và tiếng Nhật. Biên soạn lại các tài liệu giới thiệu về đầu tư nước ngoài như guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập nhật các thông tin về chinh sách, pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài. Làm đĩa VCD hoặc CD ROM để giới thiệu về môi trường đầu tư.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn II và điều chỉnh mục tiêu cơ chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư - MPI (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế- EDB (Singapore) nhất là cơ chế “chấp thuận nhanh” trong cấp GCNĐT cho phù hợp với tình hình mới.