Các nguyên nhân gây ra sa mạc hóa biển
Hơn bao giờ hết sa mạc hóa biển đang là vấn đề cực kì nóng bỏng, cấp thiết và nan giải. Theo định nghĩa của Tổ chức Nông lương thế giới (FAO) sa mạc hóa “là quá trình tự nhiên và xã hội phá vỡ cân bằng sinh thái của đất, thảm thực vật, không khí và nước, dẫn đến giảm sút hoặc hủy hoại hoàn toàn khả năng dinh dưỡng của một khu vực, giảm thiểu các điều kiện sinh sống và làm gia tăng cảnh hoang tàn”.
“Sa mạc hóa biển” có 2 nguồn gốc chính là do hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Thứ nhất, các yếu tố nhiệt độ không khí và nước biển, các chất dinh dưỡng nito và phốt pho, nồng độ Oxy hoà tan, cửa sông ven biển, dòng hải lưu, thủy triều tác động qua lại và không thể tách rời, tạo nên những vùng có oxy hòa tan rất thấp trên tầng mặt biển, trong các khối nước và đáy biển, tạo nên tiền đề cho sự hình thành khu vực biển chết hay là sa mạc hóa biển.
Thứ hai, do biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng do hoạt động của con người, cụ thể là phát thải khí nhà kính, yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến sự gia tăng nồng độ a xít trong đại dương và trong biển, làm ngắt đi nguồn bổ sung dinh dưỡng, làm giảm đa dạng sinh học và làm gián đoạn chu kỳ của oxy, nito và photpho. Kết quả của hiện tượng a xít hóa đại dương gây hiện tượng san hô bị tẩy trắng, và cũng làm cho môi trường cư ngụ và sinh trưởng của các sinh vật biển bị biến đổi, chất lượng nước suy giảm, dễ bị tổn thương, cùng với sự biến đổi lượng chất dinh dưỡng thấp đi đã gây ra sa mạc hóa tại một số nơi.
Thứ ba, do dòng hải lưu. Các khu sa mạc biển được hình thành ở độ sâu nằm ngay dưới lớp phân cách khối nước sâu và bên dưới của các dòng hải lưu có hình xoáy nước thuận và xoáy nghịch trên mặt biển. Cả hai loại xoáy nước được tìm thấy có DO cao hơn 3-5 lần so với các vùng nước xung quanh, tuy nhiên DO thấp nhất ở tại khu nước sâu trung tâm của xoáy nước nơi mà xoáy nước chuyển tiếp giữa dòng xoáy và môi trường xung quanh. Điều này được hỗ trợ bởi một cấu trúc thủy văn ổn định đáng kể của lõi xoáy nước trong thời gian tới vài tháng. Sự trao đổi chậm chạp ranh giới xoáy với môi trường nước bên ngoài tạo ra các "sa mạc biển”
Thứ tư, sự hủy diệt các hệ sinh thái biển quan trọng như hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái cỏ biển bằng các biện pháp thuốc nổ, hóa chất độc hại... dẫn đến mất nơi cư trú và sinh trưởng của các loài thủy hải sản. Đặc biệt gây hại là những hoạt động lấn biển gây mất rừng ngập mặn, bồi lấp hủy diệt rạn san hô để xây dựng đảo và các công trình. Để phục hồi được hệ sinh thái san hô thuộc loại dễ bị tổn thương nhất của biển phải mất hàng chục năm tái tạo, phục hồi với công sức và kinh phí rất tốn kém.
Thứ năm, do phát triển đô thị và các khu công nghiệp ven biển, gây ra lượng chất thải rắn, nước thải và khí thải rất lớn, phá vỡ chất lượng không khí, nước mặt và nước biển, đặc biệt là sự gia tăng các chất dinh dưỡng, thường hay dẫn tới hiện tượng phù dưỡng hay tảo nở hoa gây hại (thủy triều đỏ), cũng thường xuyên dẫn đến các hiện tượng cá chết hàng loạt.
Tác động của sa mạc hóa biển đến môi trường và kinh tế, xã hội
Tại các khu vực bị hiện tượng sa mạc hóa biển thì cá, động vật biển và thực vật biển hoặc là chết hoặc phải di rời khỏi vùng này. Từ năm 1970 đến nay với sự gia tăng ô nhiễm chủ yếu xuất phát từ hoạt động của con người trên đất liền (khí thải, nước thải) chiếm tới 80% chất thải đổ ra biển đã gây ra tổn thương và mất cân bằng nhiều hệ sinh thái ven biển, đảo. Đại đa số các vùng sa mạc biển nằm sát ven bờ và gần các khu đô thị hay khu công nghiệp và bị tác động tương tự nhau với các nguồn gây ô nhiễm chính: do sự phát triển đô thị và gia tăng dân cư; gia tăng khối lượng nước thải; do sản xuất và do nhà máy nhiệt điện.
Khi thiếu oxy ở phía dưới mặt biển trở nên phổ biến trên khắp một vùng, cá sát ven bờ biển và cua không có có nơi nào để đi, không thể thoát khỏi điều kiện oxy thấp và kết quả là cá chết có thể xảy ra, khi chúng ta nhìn thấy cá chết trôi dạt vào bãi biển.
Sự gia tăng nhiệt độ mặt nước biển theo mùa cũng dẫn đến thay đổi sự phân tầng và khả năng cung cấp oxy trong tần mặt và các khối nước, dẫn đến sự gia tăng trong tương lai các số lượng sa mạc mới.
Sự hủy diệt các rạn san hô. 10% của rạn san hô trên thế giới đã hoàn toàn bị phá hủy. Tại khu vực Đông Nam Á có sự đa dạng san hô nhất trên thế giới, sự phá hủy rạn san hô là hơn 70% và chỉ có 5% có thể được cho là trong tình trạng tốt. Sự diệt vong của các rạn san hô, mà phải hàng chục năm mới gây dựng lên được hệ sinh thái biển quan trọng, và coi như đã tạo một tình trạng DZ, gây suy giảm mạnh nơi cư trú, sinh nở và trưởng thành của rất nhiều cá và hải sản quý giá. Diệt vong rạn san hô chủ yếu do con người tạo ra.
Nguy cơ sa mạc hóa tại vùng biển Việt Nam
Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đều chịu sự tác động của các hoạt động như biến đổi khí hậu toàn cầu, các chất thải nhiều dinh dưỡng khu vực đô thị và công nghiệp, hiện tượng huỷ diệt san hô, hiện tượng hải dương nước trồi, nước chìm và nguy cơ có nhiều vùng sa mạc biển.
Các khu vực có nguy cơ bị sa mạc hóa biển tại vùng ven biển Việt Nam do nước thải từ hoạt động dân sinh và công nghiệp
Các khu vực vùng ven biển cửa sông lớn (hệ thống sông Hồng - sông Thái Bình, hệ thống sông Mê Kông), nơi mang tải lượng lớn các chất dinh dưỡng, phù sa từ lục địa đổ ra biển đó là các vùng ven các tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, các tỉnh từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Kiên Giang.
Vùng ven biển liền kề với 18 khu công nghiệp ven biển: Vân Đồn (Quảng Ninh); Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phòng); Nghi Sơn (Thanh Hóa); Đông Nam Nghệ An (Nghệ An); Vũng Áng (Hà Tĩnh); Hòn La (Quảng Bình); Chân Mây - Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế); Chu Lai (Quảng Nam); Dung Quất (Quảng Ngãi); Nhơn Hội (Bình Định); Nam Phú Yên (Phú Yên); Vân Phong (Khánh Hòa); Phú Quốc (Kiên Giang); Định An (Trà Vinh), Năm Căn (Cà Mau), Đông Nam (Quảng Trị), ven biển Thái Bình (Thái Bình), Ninh Cơ (Nam Định).
Các khu vực có hệ sinh thái rạn san hô có nguy cơ bị huỷ diệt bởi thuốc nổ và hóa chất
16 Khu bảo tồn Đảo Trần, Cô Tô (Quảng Ninh); Bạch Long Vĩ, Cát Bà (Hải Phòng); Hòn Mê (Thanh Hóa); Cồn Cỏ (Quảng Trị); Hải Vân - Sơn Chà (Thừa Thiên - Huế - Đà Nẵng); Cù Lao Chàm (Quảng Nam); Lý Sơn (Quảng Ngãi); Nam Yết, vịnh Nha Trang (Khánh Hòa); Núi Chúa (Ninh Thuận); Phú Quý, Hòn Cau (Bình Thuận); Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu); Phú Quốc (Kiên Giang).
Các khu vực khác có san hô như vịnh Bái Tử Long, vịnh Hạ Long, ven biển Trung Bộ từ Quảng Bình đến Vũng Tàu và vùng biển Trường Sa - Hoàng Sa.
Các khu vực gần với cảng biển có đông tàu thuyền qua lại: Gần cảng khu vực Quảng Ninh - Hải Phòng, khu vực cảng Vũng Tàu - thành phố Hồ Chí Minh nơi tập trung lớn các tàu vận tải hàng chính của Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp giảm thiểu sa mạc biển
Để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, an toàn sinh thái, an ninh môi trường và an ninh chủ quyền biển đảo, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau: Ban hành văn bản, cơ chế, chính sách, pháp luật quản lý và giải pháp thích ứng - giảm nhẹ với các khu vực có nguy cơ sa mạc biển. Nghiên cứu, xác định danh mục, bản đồ phân bố sa mạc biển tại vùng biển ven bờ và ngoài khơi Việt Nam. Phổ biến thông tin sa mạc biển và tác động của chúng đến kinh tế - xã hội - môi trường tới các cộng đồng dân cư ven biển, hải đảo và các tổ chức cá nhân liên quan.
Chủ động có các giải pháp phòng ngừa sớm hiện tượng sa mạc biển như thiết lập khoanh vùng các khu bảo vệ môi trường chuẩn mực quốc tế như khu biển đặc biệt nhạy cảm, khu vực biển đặc biệt, khu ramsar, khu di sản biển, khu dự trữ sinh quyển biển, khu bảo tồn biển, khu bảo tồn san hô... Kiểm soát, quan trắc tự động chất lượng nước thải, đa dạng sinh học và có sự tham gia của cộng đồng ngư dân
Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, phòng ngừa, cảnh báo và thích ứng với hiện tượng sa mạc biển.
Dư Văn Toán
Tạp chí Du lịch 7/2017