Hát ví là lối hát ví von để đối đáp giữa bên nam và bên nữ, thuộc thể ngâm vịnh bằng phương pháp phổ thơ dân tộc. Hát ví thường là hát tự do, không có tiết tấu từng khuôn nhịp, người hát có thể co giãn một cách ngẫu hứng, âm điệu cao thấp, ngắn dài tùy thuộc vào lời thơ (ca từ) bằng hay trắc, ít từ hay nhiều từ. Tính biểu cảm của hát ví phụ thuộc vào hoàn cảnh, không gian, thời gian và tâm tính của người hát. Vì vậy, điệu ví nghe lúc thì mênh mang, sâu lắng, bâng khuâng xao xuyến, tha thiết ân tình, đôi khi lại dí dỏm, hài hước, tươi trẻ. Có nhiều loại ví khác nhau như: ví phường cấy, ví phường gặt, ví phường nón, ví đò đưa, ví phường vải... với ba hình thức diễn xướng là hát lẻ, hát đối đáp và hát cuộc.
Giặm gắn nghĩa với giặm lúa, điền nan, là thể hát nói bằng thơ ngụ ngôn (vè 5 chữ). Thông thường, một bài giặm có nhiều khổ, mỗi khổ có 5 câu, mỗi câu có 5 chữ. Giặm là thể hát có tiết tấu rõ ràng, có phách mạnh - phách nhẹ, nhịp nội - nhịp ngoại với hai làn điệu chính là hát ngâm và hát nói. Giặm rất giàu tính tự sự, tự tình, kể lể, khuyên răn, phân trần, giãi bày, cũng có khi dí dỏm khôi hài, châm biếm trào lộng, trữ tình giao duyên. Có nhiều loại giặm khác nhau với hai hình thức diễn xướng là giặm vè và giặm nam nữ.
Dân ca ví, giặm sử dụng nhiều từ ngữ địa phương với lốt hát gần gũi, mộc mạc. Kỹ thuật hát chủ yếu được trao truyền bằng hình thức truyền khẩu. Dân ca ví, giặm gắn liền với đời sống và tập quán của cộng đồng người Nghệ Tĩnh, có khả năng biểu đạt tư tưởng, tình cảm con người, đồng thời góp phần giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống. Dân ca ví, giặm còn là nguồn cảm hứng, là chất liệu để các nghệ sĩ đương đại sáng tác nhiều tác phẩm âm nhạc, sân khấu mang âm hưởng dân ca, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Với những giá trị độc đáo và nổi bật, ngày 27/11/2014, dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
PV