Tư duy toàn cầu và hành động địa phương trong giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học du lịch
Thực trạng giáo dục du lịch ở Việt Nam
Những năm vừa qua, giáo dục du lịch các cấp của Việt Nam có nhiều thành công: 1) Cơ sở giáo dục du lịch được hình thành và mở rộng, số lượng tăng nhanh, phủ kín hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 2) Năng lực giáo dục nghề nghiệp, đại học và bồi dưỡng du lịch từng bước được nâng lên; 3) Quy mô đào tạo, dạy nghề và bồi dưỡng hàng năm tăng, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực, đáp ứng yêu cầu xã hội; 4) Đào tạo lại, bồi dưỡng du lịch được quan tâm, cả về bộ máy, nhân lực và kinh phí; 5) Quản lý nhà nước về giáo dục du lịch có tiến bộ; 6) Liên kết, hợp tác trong và ngoài nước đạt kết quả khích lệ, thu hút được vốn, kinh nghiệm và công nghệ.
Tuy nhiên, giáo dục du lịch vẫn còn nhiều bất cập: 1) Sự phân bố cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp du lịch còn bất hợp lý, chỉ tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang; 2) Năng lực giáo dục du lịch còn nhiều hạn chế, giảng viên, giáo viên chuyên ngành du lịch chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 30%), doanh nghiệp chưa sử dụng tốt đào tạo viên du lịch để đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ; 3) Quy mô giáo dục du lịch mới đáp ứng được hơn 65% nhu cầu xã hội, khoảng 75% nhu cầu nhân lực trực tiếp của ngành; 4) Nhu cầu đào tạo lại và bồi dưỡng du lịch rất lớn, nhưng đáp ứng ở mức thấp; 5) Chất lượng giáo dục chính quy chưa đảm bảo, chất lượng đào tạo lại, bồi dưỡng hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của ngành Du lịch trong bối cảnh hội nhập quốc tế và tác động của cuộc CMCN 4.0; lao động phổ thông tuyển vào làm việc không được quan tâm đào tạo tại chỗ; 6) Bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục du lịch chưa đủ mạnh, thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa tương ứng nhiệm vụ; nhiều địa phương, cả ở trọng điểm du lịch, chưa có bộ phận chuyên trách phát triển nguồn nhân lực du lịch; 7) Chưa có chính sách định hướng dài hạn, thiếu giải pháp phù hợp; 8) Chất lượng giáo dục du lịch ở vùng sâu, vùng xa thấp hơn ở đô thị và đồng bằng; 9) Liên kết giáo dục du lịch chưa đạt hiệu quả mong muốn; 10) Mới chỉ chú trọng giáo dục du lịch trong trường, ít chú trọng đào tạo cộng đồng dân cư, người lao động các ngành liên quan du lịch. Những hạn chế yếu kém nêu trên chủ yếu là do đến nay vẫn thiếu tư duy toàn cầu và ít hành động địa phương về giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp du lịch để định hướng đúng, có hệ thống và đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Đòi hỏi tư duy toàn cầu trong giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học du lịch
Giáo dục du lịch phải tư duy toàn cầu vì: Tự thân du lịch đã mang tính khu vực và toàn cầu cả ở tiêu dùng và sản xuất. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, động lực hoặc mũi nhọn, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng, hội nhập và xã hội hóa cao. Giáo dục du lịch cũng vậy, không thể “mạnh ai nấy làm”, mà cần hợp tác quốc tế, với mục tiêu chung, chiến lược chung, chất lượng chung theo tiêu chuẩn dựa trên năng lực thực hiện. Nhờ thế có thể học hỏi thêm kinh nghiệm, được hỗ trợ vốn, nhân lực, kỹ thuật, công nghệ. Muốn giáo dục du lịch đáp ứng nhu cầu xã hội phải tư duy toàn cầu và cần trang bị tư duy toàn cầu. Chỉ có vậy mới thấy được các yếu tố quốc tế tác động và xác định đúng, rõ mục tiêu, phương thức, công nghệ, quy mô, chất lượng và cơ cấu giáo dục du lịch.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng hơn, đặc biệt là tác động đa chiều, tốc độ cao của CMCN 4.0 đã và sẽ làm cho kinh tế tri thức phát triển theo chiều sâu; thông tin liên lạc cá nhân được coi là mục tiêu cao nhất trong thông tin liên lạc lý tưởng của nhân loại, internet được thay thế bằng evernet. Hoạt động du lịch không nằm ngoài những tác động đó và vì thế giáo dục du lịch cũng bị các yếu tố này chi phối.
Giao lưu và hội nhập quốc tế đang diễn ra thuận lợi và nhanh chóng, nhưng là cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn đa dạng sinh học và bản sắc văn hóa dân tộc, vùng miền, địa phương. Qua đó tạo ra những biến đổi lớn về diện mạo, đặc điểm, loại hình du lịch; sự bùng nổ các phương tiện và công nghệ truyền thông, công nghệ giải trí, nhất là các công nghệ CMCN 4.0 cũng tạo nên những tác động tích cực lẫn tiêu cực đến giáo dục du lịch.
Toàn cầu hóa ngày càng rộng và sâu làm cho hoạt động du lịch liên kết thành chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, đặc biệt là liên kết khu vực, tiểu khu vực. Các nước đều muốn và buộc phải tham gia sâu vào quá trình phân công lao động quốc tế trong du lịch để tránh tụt hậu và được hưởng lợi nhiều hơn kết quả toàn cầu hóa, khu vực hóa, nếu có nguồn nhân lực được giáo dục du lịch, đủ năng lực thực hiện công việc. Đây là yếu tố quyết định, buộc phải tư duy theo hướng này, nguồn nhân lực du lịch phải “quốc tế hóa”, nên giáo dục du lịch cũng vì thế không thể chỉ triển khai ở bình diện một quốc gia.
Việc hình thành các khối, các tổ chức hợp tác đa phương, song phương liên quan đến du lịch như UNESCO, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Du lịch thế giới của Liên hợp quốc (UNWTO) thúc đẩy sự di chuyển lao động quốc tế mạnh hơn, nhân lực trình độ cao từ các nước phát triển vào các nước đang phát triển để chiếm giữ những vị trí then chốt về khoa học - công nghệ, quản lý, kinh doanh. Các nước đang phát triển phải phát triển nguồn nhân lực du lịch để chủ động tiếp cận tri thức, tiếp nhận chuyển giao công nghệ để nắm bắt và tiến tới làm chủ kiến thức và công nghệ, cạnh tranh thắng lợi ngay tại thị trường du lịch trong nước và dần vươn lên xuất khẩu lao động du lịch ra nước ngoài. Hợp tác và liên kết trong ASEAN, đặc biệt là việc hình thành Cộng đồng ASEAN cuối năm 2015 và ký Thỏa thuận Thừa nhận lẫn nhau về các nghề trong du lịch ASEAN, giữa ASEAN với các đối tác ngày chặt chẽ và toàn diện; mối quan hệ Á - Âu ngày càng phát triển và sự hợp tác sẽ đảm bảo cho sự ổn định, an ninh và phát triển kinh tế. Hiệp định Thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định bảo hộ đầu tư (IPA) giữa Việt Nam và châu Âu được ký kết ngày 30/6/2019… Để đáp ứng yêu cầu đàm phán, hoạch định chính sách chung đến việc tổ chức thực hiện cam kết, hạn chế rủi ro, bất lợi và thu lợi nhiều hơn từ hợp tác quốc tế về du lịch, đòi hỏi Việt Nam phải có nhân lực du lịch chất lượng cao.
Trong bối cảnh đó, giáo dục du lịch nhằm đảm bảo mục tiêu hội nhập quốc tế về du lịch. Giáo dục du lịch dựa trên năng lực được thừa nhận rộng rãi trong khu vực; nhân lực du lịch nhờ thế có thể di chuyển và tìm được việc làm trong khu vực; ngành Du lịch quốc gia có thể vươn tới tham gia chủ động vào quá trình phân công lao động quốc tế trong du lịch, để có vị trí xứng đáng trong chuỗi cung cấp dịch vụ du lịch có chất lượng của khu vực và thế giới. Học tập suốt đời là yêu cầu bắt buộc đối với nguồn nhân lực du lịch. Do đó, phải nhận thức được vai trò, vị trí hàng đầu của giáo dục du lịch và khoa học, công nghệ; đẩy mạnh đổi mới giáo dục du lịch và khoa học công nghệ, ứng dụng vào thực tiễn du lịch để đáp ứng năng động, hiệu quả và trực tiếp hơn nhu cầu giáo dục du lịch.
Những giá trị du lịch mới được thiết lập trên cơ sở giá trị văn hóa dân tộc độc đáo, nguyên bản, giá trị tự nhiên nguyên sơ, giá trị sáng tạo và công nghệ cao, hiện đại là những xu hướng lựa chọn của nhu cầu du lịch. Cạnh tranh và phát triển du lịch sẽ chủ yếu dựa trên tính độc đáo và sáng tạo của sản phẩm, dịch vụ, giá trị độc đáo của bản sắc văn hóa và chất lượng môi trường. Những yêu cầu này tác động trực tiếp đến giáo dục du lịch, nhất là phát triển thái độ, trách nhiệm, kỹ năng và kiến thức sâu, rộng của nguồn nhân lực du lịch.
Bên cạnh đó, những nhân tố mang tính chuyên ngành tác động trực tiếp, toàn diện và sâu sắc đến giáo dục du lịch, nổi bật là: 1) Các yếu tố liên quan đến khách du lịch; 2) Các yếu tố thị trường lao động du lịch; 3) Các yếu tố của nguồn nhân lực du lịch: Xu hướng phân cực của nhân lực du lịch trong cuộc CMCN 4.0; năng lực con người chứ không phải vốn và công nghệ quyết định sự phát triển du lịch; xu hướng di chuyển và chuyển dịch cơ cấu nhân lực tăng nhanh; 4) Xu hướng tăng đầu tư vào giáo dục du lịch; xu hướng thích ứng nhanh của hệ thống giáo dục du lịch…; 5) Xu hướng phát triển du lịch toàn cầu.
Hành động địa phương của Việt Nam trong giáo dục du lịch
Lý do phải hành động địa phương trong giáo dục du lịch
Giáo dục du lịch phải tư duy toàn cầu, nhưng cần hành động địa phương vì: khí hậu, tài nguyên du lịch, chủ trương, chính sách, kinh tế, xã hội, truyền thống, quan niệm, bản sắc văn hóa mỗi địa phương, mỗi quốc gia rất khác nhau. Một biện pháp giáo dục du lịch áp dụng ở nước ngoài rất hay nhưng có thể không kết quả, hoặc không “dùng” được ở châu Á. Nên mỗi vùng, mỗi nước, từng điểm đến du lịch, mỗi địa phương phải có hành động của riêng mình, phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của đất nước và con người “bản địa”. Mặt khác, chỉ các chủ thể phát triển du lịch địa phương mới biết rõ nguồn lực có thể khai thác được cho giáo dục du lịch; phải đối mặt với thách thức, có cơ hội, điểm yếu và thế mạnh gì trong giáo dục du lịch. Cơ sở giáo dục du lịch phải có “hành động địa phương” để hoàn thành sứ mệnh, đạt mục tiêu đặt ra và để khác biệt với đối thủ cạnh tranh, thay đổi theo hành vi, tập quán của cư dân địa phương, giành được người học.
Hoạt động giáo dục du lịch phải hoạch định trên cơ sở điều kiện đất nước, nổi bật là: Việt Nam phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Khi kinh tế càng phát triển, mức thu nhập ngày càng cao, nhu cầu giáo dục nghề nghiệp cũng ngày một cao hơn, sự xuất hiện của những ngành nghề mới, nhu cầu giáo dục du lịch các cấp cũng sẽ tăng lên. Sẽ có rất nhiều tập đoàn, công ty xuyên quốc gia đầu tư vào du lịch; đồng thời, Việt Nam cũng sẽ đầu tư du lịch ra nước ngoài. Sự thúc bách cần thiết phải tham gia các định chế/tổ chức quốc tế và cùng cộng đồng khu vực và thế giới giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu và khu vực, trong đó có những vấn đề trong lĩnh vực du lịch. Nhu cầu nhân lực du lịch sẽ trở nên rất lớn, sự di chuyển lao động du lịch từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài ngày một tăng, cạnh tranh trên thị trường lao động du lịch gay gắt hơn. Điều đó đòi hỏi phải nhanh chóng tạo được nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu lao động, trong đó có một bộ phận nhân lực chất lượng cao để đảm trách được những vị trí quan trọng trong các doanh nghiệp du lịch có vốn đầu tư nước ngoài, cạnh tranh thắng lợi với nguồn nhân lực du lịch là người nước ngoài tại Việt Nam và đi làm việc tại các cơ sở du lịch Việt Nam ở nước ngoài, của các nước và quốc tế.
Những thành tựu trong đổi mới đất nước tạo ra những tiền đề mới, rất quan trọng cho giáo dục du lịch. Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đạo học và bồi dưỡng du lịch là yếu tố cấu thành quan trọng của phát triển nguồn nhân lực du lịch; ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực du lịch. Việt Nam đang ở trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” nên có lực lượng lao động rất đông đảo, tỷ lệ dân số hàng năm bước vào độ tuổi lao động cao. Song, thời kỳ “dân số vàng” cũng tạo ra sức ép lớn về giải quyết việc làm do quy mô nhân lực lớn, trong đó số người chưa qua đào tạo còn nhiều. Dự báo từ nửa sau thập kỷ 2020, dân số Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ “già hóa dân số”, tỷ lệ người già tăng nhanh. Nếu không có chính sách giáo dục du lịch hợp lý để toàn dụng lao động chất lượng ngày càng cao, tình trạng “già hóa” khi chưa kịp già sẽ trở thành vấn đề lớn.
Giáo dục du lịch tạo ra “đầu vào” phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và hợp lý về cơ cấu, hoàn thành nhiệm vụ phát triển du lịch góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Tất cả nỗ lực cố gắng để đến năm 2020 đạt được mục tiêu đã đề ra trong Quy hoạch phát triển nhân lực du lịch đến năm 2020, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Việt Nam trở thành một trung tâm du lịch hàng đầu khu vực.
Những hành động địa phương cụ thể trong giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học du lịch Việt Nam
Tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục du lịch: Hành động này để định hướng đúng, tăng cường năng lực hoạch định chính sách, hình thành khung pháp lý và cơ chế cho giáo dục du lịch, đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, cơ sở giáo dục du lịch và doanh nghiệp; quan tâm hơn đến nhu cầu đào tạo của nhân lực du lịch gián tiếp và của cộng đồng.
Xây dựng tiêu chuẩn (tập trung vào tiêu chuẩn nghề) và thực hiện chuẩn hóa một bước nguồn nhân lực du lịch, phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế tạo điều kiện cho hội nhập quốc tế về lao động trong du lịch: Hành động này nhằm hình thành được chuẩn du lịch quốc gia làm cơ sở để các cơ sở giáo dục du lịch xây dựng chương trình giáo dục du lịch theo chuẩn và các doanh nghiệp tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực du lịch thống nhất toàn quốc và đảm bảo hội nhập quốc tế thành công.
Phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục du lịch:
Hành động này nâng cao năng lực giáo dục du lịch cho mạng lưới cơ sở giáo dục du lịch toàn quốc đáp ứng nhu cầu xã hội.
Xây dựng, công bố và thực hiện chuẩn trường: Hành động này là chuẩn hóa mọi mặt các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp du lịch, để thực hiện được quy mô, chất lượng và cơ cấu giáo dục du lịch theo nhu cầu xã hội.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến vào nghiên cứu, thống kê phục vụ giáo dục du lịch: Đây là hành động để từng bước hiện đại hóa giáo dục du lịch.
Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực (tài chính, công nghệ, công sức và kinh nghiệm) trong và ngoài nước cho giáo dục du lịch: Hành động này để huy động và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực trong và ngoài nước cho giáo dục du lịch.
Tạo môi trường thuận lợi cho giáo dục du lịch: Hành động này để tạo môi trường thuận lợi hơn cho giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học du lịch.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực du lịch, 2011.
2. Tổng cục Du lịch, Báo cáo thương niên, Hà Nội, 2019; Quy hoạch tổng thể phát triển du lich Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Hà Nội, 2011.
3. Tổng cục Thông kê, Dự báo Thế kỷ 21, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.
TS. Nguyễn Văn Lưu