Mới vào đến đầu làng Kiêu Kỵ, đã nghe rõ những tiếng búa đập quỳ đều đặn vang. Trong làng thờ Tổ nghề quỳ vàng, quỳ bạc, nghệ nhân Lê Bá Chung, Chủ nhiệm HTX công nghiệp quỳ vàng Kiêu Kỵ cho biết; đây là ngôi nhà tràng (nhà thờ Tổ) rất linh thiêng. Tương truyền, hơn 500 năm trước, tiên sư Nguyễn Quý Trị (1428 - 1527) đã truyền dạy nghề dát quỳ vàng cho dân làng. Nhớ ơn người truyền dạy, hàng năm, dân làng lấy ngày 17/8 âm lịch, ngày mất của ông, làm ngày giỗ Tổ. Ngày 12 tháng giêng là ngày làm lễ khai tế. Trong ngày này, làng chọn ra một người giỏi nghề, lại có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, thay mặt cho dân làng khai búa dát quỳ vàng.
Hiện nay, toàn xã Kiêu Kỵ có 120 gia đình làm và kinh doanh quỳ vàng, quỳ bạc, nhiều hộ sản xuất quy mô lớn với hàng chục thợ làm việc. Nhờ vậy, người dân địa phương đã có việc làm ổn định và tăng thu nhập.
Trước cách mạng tháng Tám, nghề làm quỳ vàng khá phát đạt, cung cấp quỳ vàng cho hầu hết các công trình tín ngưỡng cung đình để dát lên các tượng phật, ngai vàng, hoành phi, câu đối, kiệu rước và tranh sơn mài… Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, nghề làm quỳ vàng gần như bị mai một, dân làng chuyển sang làm nghề sản xuất đồ dùng bằng da và giả da. Sau ngày thống nhất đất nước, các công trình văn hóa, di tích lịch sử được khôi phục hoặc xây dựng mới cần đến quỳ vàng, do đó nghề truyền thống ở Kiêu Kỵ được khôi phục và phát triển. Không ít sản phẩm quỳ vàng của Kiêu Kỵ còn được xuất khẩu sang các nước Thái Lan, Nhật Bản… đem về nguồn ngoại tệ không nhỏ cho những người làm nghề.
Cụ Đinh Thị Hồng, 82 tuổi, đã có hơn 60 năm tuổi nghề cho biết, dát quỳ vàng là nghề rất công phu, đòi hỏi tính cần cù, kiên nhẫn và khéo tay. Để làm ra một lá quỳ phải thực hiện đến hơn 40 công đoạn, đòi hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật và thao tác tinh xảo.
Những thỏi vàng, bạc thật được đập cho dài và mỏng (gọi là đập diệp) có bề ngang 1cm, được cắt thành những hình vuông nhỏ 1cm2 rồi đặt vào lá quỳ. Lá quỳ có cạnh dài 4cm được kén từ loại giấy dó (giấy làm tranh Đông Hồ) mỏng và dai, được "lướt" nhiều lần bằng mực tự chế làm bằng bồ hóng đặc biệt, trộn với keo da trâu, tạo cho giấy quỳ bền chắc. Mỗi quỳ 500 lá, trên mỗi lá đặt một mảnh vàng nhỏ 1cm2, dùng vải dường bâu Nam Định gói lại, đặt lên đe bằng đá, dùng loại búa chuyên dụng đập lên tập lá quỳ, sao cho mảnh vàng mỏng và tràn bằng lá quỳ. Cắt nhỏ lá vàng đã đập mỏng thành mười hai mảnh, lấy một mảnh đặt tiếp lên lá quỳ và tiếp tục đập mỏng. Người thợ giỏi có thể dàn mỏng một chỉ vàng thành tấm lá vàng có diện tích hơn 1m2. Muốn có một quỳ vàng, người thợ phải đập khoảng một giờ liên tục. Còn ở giai đoạn cuối, khi gỡ vàng trả khách, người thợ phải làm việc trong phòng kín gió, đeo khẩu trang vì chỉ cần vô ý thở mạnh, vàng cũng đã bay tung. Khi sử dụng, người thợ dùng chiếc bay rất mỏng bằng xương hoặc mảng tre vát mỏng để giát vàng lên các sản phẩm; họa sỹ dùng bút vẽ với dầu sơn chấm vào quỳ vàng để vẽ lên tranh sơn mài.
Được biết, bạn hàng thân thiết của làng nghề quỳ vàng, bạc Kiêu Kỵ là các làng làm nghề tạc tượng, khắc hoành phi, câu đối, hoặc làm hàng sơn mài như Sơn Đồng, Võ Lăng, Hạ Thái (Hà Nội); Mai Động, Đồng Quang (Bắc Ninh); Liên Minh, Cát Đằng (Nam Định); Bảo Hà (Hải Phòng)… Không những xưa kia mà gần đây, các họa sỹ trang trí những công trình kiến trúc lớn cũng đã tìm đến quỳ vàng Kiêu Kỵ dùng cho việc trang trí nội thất như Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Văn Miếu - Quốc Tử Giám và nhiều khách sạn lớn trong toàn quốc. Các di sản văn hóa, kiến trúc được UNESCO công nhận như kinh đô Huế, Hội An không thể thiếu quỳ vàng, quỳ bạc.
Quỳ vàng, quỳ bạc được dùng thếp tượng, đồ thờ, hoành phi, câu đối, vẽ tranh… Nghề sơn son thếp vàng đã hình thành ở Kiêu Kỵ ngay từ khi có nghề dát quỳ vàng, quỳ bạc. Tuy nhiên, nghề bị mai một từ khoảng những năm 50 của thế kỷ trước. Đến năm 2004, hai nghệ nhân của làng là Lê Văn Vòng và Lê Bá Chung cùng một số thợ giỏi đã khôi phục, phát triển nghề sơn son thếp vàng. Đến nay, làng nghề Kiêu Kỵ đã được khôi phục hoàn chỉnh với hai nghề truyền thống là dát quỳ vàng, quỳ bạc và sơn son thếp vàng.
|
Nguyễn Viết Tôn
(Nguồn: Tạp chí Du lịch)