Khả năng cạnh tranh và hướng phát triển của Du lịch Việt Nam thời kỳ hậu WTO
Khả năng cạnh tranh và hướng phát triển của Du lịch Việt Nam thời kỳ hậu WTO
Thứ hai, 06/08/2007 | 11:09 GMT+7 Du lịch Việt Nam, trong hơn một thập kỷ qua, phát triển khả quan với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm hàng chục phần trăm. Mặc dù vậy, khả năng cạnh tranh của Du lịch Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành nói riêng vẫn còn yếu nếu so sánh với những quốc gia láng giềng trong khu vực.
Vấn đề này được phân tích từ những khía cạnh sau:
KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TỔNG THỂ CỦA NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM
So với các quốc gia Đông Nam Á lớn khác, tính cạnh tranh giá cả của Việt Nam là tốt nhất, nhưng lại kém hơn các quốc gia cạnh tranh còn lại trên mọi phương diện khác. Singapore kém cạnh tranh nhất về phương diện môi trường do mật độ dân cư của quốc gia này quá cao nhưng lại dẫn đầu về tính cạnh tranh của tất cả các phương diện còn lại. Thái Lan luôn có tính cạnh tranh tốt hơn Việt Nam xét trên mọi phương diện ngoại trừ giá cả và môi trường. Tuy nhiên, đối với phòng ngủ là một khoản chi tiêu lớn nhất của khách du lịch thì hai đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam là Malaysia và Thái lan vẫn có mức giá cạnh tranh hơn Việt Nam. Mức độ cạnh tranh về giá phòng ngủ được xác định trên cơ sở chỉ số giá của khách sạn. Thái Lan được coi là nước cạnh tranh nhất về giá khách sạn.
Cũng theo đánh giá của WTTC, so với các quốc gia láng giềng thì ngành Du lịch Việt Nam có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, có thị trường nội địa rộng lớn xét trên phương diện quy mô khách du lịch nội địa, ngoài ra Việt Nam đang nổi lên là một điểm đến an toàn và thân thiện.
Việt Nam là một nước mới gia nhập thị trường du lịch quốc tế, có rất nhiều cơ hội cũng như là thách thức đối với việc phát triển điều kiện cầu cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng du lịch. Đặc biệt bằng việc tổ chức thành công hội nghị APEC vừa qua, Việt Nam đang có cơ hội làm sống lại thị trường du lịch quốc tế bằng hình ảnh một điểm đến an toàn, hấp dẫn và cởi mở. Mối đe dọa đối với việc phát triển điều kiện cầu du lịch là thị trường du lịch nội địa còn nhỏ nếu xét trên góc độ thu nhập du lịch (20% tổng thu ngành du lịch) và thị phần du lịch của Việt Nam trong khu vực quá nhỏ khiến cho các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thể phải cạnh tranh với những doanh nghiệp du lịch lớn hơn trong khu vực.
Đối với chỉ số cơ sở hạ tầng cơ bản được đo bằng độ dài và chất lượng đường giao thông, dịch vụ vệ sinh, cấp nước và xe lửa thì Việt Nam thua xa đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Cơ sở hạ tầng yếu kém là một nguyên nhân khiến khách du lịch quốc tế khó chịu nhất khi đi du lịch Việt Nam. Cùng với tình trạng tắc nghẽn giao thông, quy định tốc độ giao thông không hợp lý trên một số tuyến du lịch làm cho chỉ số cạnh tranh về cơ sở hạ tầng của Việt Nam thấp. Đây là một vấn đề nan giải đối với ngành Du lịch Việt Nam khi mà việc cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng cần có thời gian và nguồn vốn đầu tư lớn...
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CHO CÁC NHÀ KINH DOANH DU LỊCH LỮ HÀNH TẠI VIỆT NAM HẬU WTO
Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh doanh dịch vụ đại lý lữ hành và kinh doanh lữ hành, sắp xếp chỗ trong khách sạn ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp du lịch lữ hành khai thác khách du lịch quốc tế inbound của Việt Nam. Việc cho phép thêm các doanh nghiệp du lịch lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ kinh doanh gửi khách tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng lực khai thác khách du lịch inbound nói chung và làm cho hoạt động du lịch inbound trong những năm tới sẽ phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, lượng khách du lịch công vụ, hội nghị (MICE) sẽ tăng mạnh sau khi Việt Nam gia nhập WTO và tổ chức thành công sự kiện APEC. Đây là cơ hội đầu tiên và lớn nhất đối với doanh nghiệp nhận khách nội địa khi gia nhập WTO. Cơ hội lớn thứ hai đối với doanh nghiệp là sức ép buộc phải có sự cải cách mạnh mẽ tại bản thân mỗi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại trên thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tiếp cận và học hỏi trình độ quản lý tiên tiến của các doanh nghiệp lớn trên thế giới. Cơ hội thứ ba là việc chính phủ cam kết về xây dựng tính minh bạch, có thể dự đoán được trong các quy định và chính sách cũng tạo ra tiền đề phát triển cho các doanh nghiệp nói chung và lữ hành du lịch nói riêng.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài với năng lực tài chính mạnh, kinh nghiệm lâu năm và lợi thế quy mô cũng sẽ là thách thức lớn nhất cho các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành inbound nội địa.
Cùng với việc mất thị trường, các doanh nghiệp lữ hành khai thác Inbound nội địa cũng sẽ có khả năng mất nguồn nhân lực chất lượng cao do hiện tượng chảy máu chất xám vì khả năng hàng loạt những người quản lý giỏi, những hướng dẫn viên giỏi ở các công ty trong nước hiện nay sẽ bị thu hút về các công ty nước ngoài do mức thu nhập tăng cao và các điều kiện làm việc chuyên nghiệp.
Để đối phó với cạnh tranh từ doanh nghiệp lữ hành gửi khách nước ngoài, chiến lược kinh doanh phù hợp trong giai đoạn tự do hóa thị trường du lịch sau khi gia nhập WTO đối với doanh nghiệp du lịch lữ hành trong nước hiện nay là trở thành các đối tác, liên minh chiến lược của các hãng lữ hành lớn và nổi tiếng trên thế giới dưới hình thức liên doanh, liên kết, hợp tác, tái cơ cấu tổ chức theo hướng linh hoạt nhằm tận dụng được nguồn khách và nghiệp vụ quản lý, điều hành du lịch tiên tiến của các doanh nghiệp nước ngoài...
Các doanh nghiệp du lịch trong nước cần phải đầu tư mạnh mẽ và áp dụng các công nghệ du lịch tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông vào hoạt động kinh doanh du lịch trực tuyến, tham gia vào các hệ thống phối chỗ toàn cầu (GDS) nhằm phục vụ hoạt động marketing, quảng bá sản phẩm và tham gia mạnh mẽ vào chuỗi giá trị toàn cầu trong du lịch.
Ths. NGÔ ĐỨC ANH
Diễn đàn phát triển Việt Nam
(Xem chi tiết trên Tạp chí DLVN số tháng 7/2007)