Ngày nay DLST đươc hiểu trên cơ sở kết hợp cả sự quan tâm tới thiên nhiên và trách nhiệm xã hội: "Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên, là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương" (Hiệp hội DLST thế giới - Ecotourism society).
Để đảm bảo cho DLST có thể hoàn thành cả hai mục tiêu: bảo tồn và phát triển lâu dài, từ thực tế trên người ta đã tiếp cận đến một khía cạnh mới đó là phát triển DLST dựa vào cộng đồng. Vấn đề này cũng đã có nhiều khái niệm và định nghĩa đưa ra, tuy nhiên chúng ta có thể hiểu theo cách diễn giải của Keith W.Sproule và Ary S.Suhandi: "Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng là nói tới các tổ chức kinh doanh du lịch sinh thái do cộng đồng sở hữu và quản lý. Hơn nữa, du lịch sinh thái bao hàm ý một cộng đồng đang chăm lo đến tài nguyên thiên nhiên của mình để có thu nhập nhờ du lịch và đang sử dụng thu nhập đó để làm cho đời sống của cộng đồng mình được tốt lên. Nó thu hút công việc bảo tồn, công việc kinh doanh và sự phát triển cộng đồng."

|
Tirtagangga – Bali, Indonesia (Water Garden Palace)
|
Với nền văn hóa đa dạng và độc đáo, trong các thập niên trước đây, Indonesia chủ yếu chỉ phát triển du lịch dựa vào loại hình du lịch văn hóa. Du lịch sinh thái bắt đầu được coi trọng tại Indonesia từ năm 1995. Để tăng cường các phong trào DLST ở Indonesia, tại Hội thảo quốc gia lần thứ hai về DLST được tổ chức tại Bali (7/1996) đã thông qua việc thành lập Hiệp hội Du lịch sinh thái Indonesia (Masyarakat Ekowisata Indonesia), viết tắt là MEI. Phải nói thêm rằng: Indonesia cũng phải đối đầu với các vấn đề về việc phát triển DLST không bền vững như tàn phá môi trường và hệ sinh thái trong một thời gian dài…
Từ năm 1996, các cuộc thảo luận, hội thảo về DLST ở Indonesia đã tăng lên. Việc này đã khuyến khích MEI thực hiện cuộc họp đầu tiên vào năm 1997 tại Flores, năm 1998 tại Tana Toraja, Sulawesi Selatan. Các tổ chức như: Tổng cục Bảo vệ Thiên nhiên và Bảo tồn, Bộ Lâm nghiệp và trồng rừng, Bộ Du lịch và Nghệ thuật, các ban phát triển ở các địa phương, MEI cũng như các tổ chức Phi chính phủ đã và đang tham gia vào việc thiết lập các nguyên tắc cho sự phát triển của DLST ở Indonesia.
Những hướng dẫn chung cho sự phát triển của DLST ở cấp chính quyền địa phương đã được xuất bản ngày 28/4/2000 và được điều chỉnh liên tục. Trong hướng dẫn 2006, 2008, những tiêu chí phát triển DLST phải dựa vào cộng đồng rất được coi trọng. Nhiều dự án phát triển DLST dựa vào cộng đồng được triển khai thành công đã mở ra hướng đi mới cho việc phát triển DLST bền vững ở Indonesia. Điển hình như: dự án phát triển DLST tại vườn quốc gia (VQG) Gunung Halimum (Tây Java), với mục tiêu phát triển là bảo tồn và sự bền vững tính đa dạng sinh học trên cơ sở trao quyền cho cộng đồng địa phương. Để thực hiện các mục tiêu phát triển trên, VQG Gunung Halimun đã thành lập một tổ chức cộng đồng địa phương (KSM). KSM có một hội đồng các ủy viên (bao gồm đại diện các làng nghề, địa phương của chính phủ phi chính phủ và đại diện VQG). Trong đó, người ta lập ra một ban điều hành gồm một nhà lãnh đạo (ketua), thư ký, thủ quỹ… để điều hành hoạt động dựa trên mục tiêu, nhu cầu của cộng đồng địa phương. Kiểu hoạt động này giống như hợp tác xã ở Việt Nam. Các khoản thu thuộc về KSM được giám sát chặt chẽ, được sử dụng để bảo vệ rừng quốc gia và lợi ích cho cộng đồng địa phương.
KSM cùng với các tổ chức khác cũng tham gia tích cực vào công tác bảo vệ môi trường và công tác tuyên truyền cho du khách, cộng đồng địa phương thông qua vận động, tài liệu quảng cáo, trekking, các bản đồ, video...
Ở nhiều vùng khác của Bali (Indonesia) người ta cũng thành lập các ban quản lý có sự tham gia của cộng đồng địa phương như ở Alas Kedaton – một điểm du lịch ở Bali được quản lý bởi DESA ADAT (cộng đồng làng). Ngoài việc tạo việc làm cho dân cư địa phương, người ta cũng gắn chặt lợi ích của cộng đồng với việc phát triển DLST. Các thu nhập của DESA ADAT được phân phối trong dân và các cơ quan có liên quan như: tiền giữ xe được chia sẻ cho chính quyền địa phương là 65%, còn cộng đồng địa phương là 35%... Năm 2008, mỗi gia đình ở Alas Kedaton nhận được trung bình khoảng 45.000 Rupiad. Vì vậy, bên cạnh việc tuyên truyền, chính lợi ích kinh tế đã gắn chặt trách nhiệm của người dân trong việc bảo tồn môi trường và văn hóa cho sự phát triển DLST bền vững. Mặt khác, nó cũng tạo nên trách nhiệm cho cộng đồng dân cư xung quanh Alas Kedaton. Những người có cửa hàng bên cạnh để vào vùng này (khoảng 240 cửa hàng) tích cực tham gia làm hướng dẫn viên du lịch, và trước khi khách rời khỏi vùng, các hướng dẫn viên cho khách du lịch thấy các nghề thủ công và đồ lưu niệm trong các cửa hàng của họ. Việc này đã góp phần nâng cao thu nhập cho cộng đồng, ngoài ra thuế từ các khoản thu nhập của các cửa hàng được dùng để phục hồi các đền thờ, bảo tồn môi trường, sửa chữa cơ sở hạ tầng…
Có thể thấy, DLST tại Indonesia vẫn còn phải làm nhiều việc để chống lại sự phá hoại tài nguyên và văn hóa. Tuy nhiên, thành công của nhiều dự án DLST dựa vào cộng đồng đã chứng minh được tính đúng đắn: muốn phát triển DLST bền vững và lâu dài phải dựa vào cộng đồng địa phương, nhưng để làm được điều này cần phải mang lại lợi ích thật sự cho họ.
[Chi tiết xem tại Tạp chí Du lịch Việt Nam số tháng 6/2010]
NGUYỄN QUYẾT THẮNG