Chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa được xây dựng thời Lý (thế kỷ XI) ban đầu có tên gọi là Chúc Thánh. Đến thời Trần (thế kỷ XIII-XIV), chùa được Trần Nhân Tông mở mang, tôn tạo và đổi tên là chùa Vĩnh Nghiêm. Nơi đây đã được nhìn nhận và tôn vinh là một trong những Trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần trong suốt thời gian trên 700 năm; là nơi tổ chức và thành lập mô hình Phật giáo Nhất tông trên cơ sở hợp nhất các thiền phái đã có trước đó và cũng là mô hình Giáo hội Phật giáo cho các tổ chức Giáo hội sau này. Sau khi từ bỏ ngai vàng đi tu, Trần Nhân Tông đã sớm tư tưởng xây dựng ý thức hệ độc lập, không phụ thuộc vào bên ngoài. Với tư cách là một vị vua anh minh, một Phật Hoàng, một nhà tư tưởng có ý thức độc lập tự chủ và tự cường dân tộc cao, ông đã sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với tư tưởng Thiền học lấy“Tâm” làm tôn chỉ tu hành, giác ngộ và giải thoát. Bất kể là người xuất gia hay tu tại gia đều có cơ hội học đạo và trải nghiệm Phật pháp ngay trong cuộc sống hàng ngày. Tinh thần “nhập thế tùy duyên”, “hòa hợp dân tộc” của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là cơ sở củng cố và nâng cao ý thức liên kết cộng đồng, tinh thần độc lập tự chủ của Đại Việt trước mọi thử thách cam go của lịch sử. Tinh thần nhập thế, tích cực tham gia xây dựng xã hội phồn vinh, an ninh và hòa bình của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không chỉ cần thiết cho đạo Phật Việt Nam mà còn thích hợp cho nhu cầu phát triển xã hội toàn cầu của nhân loại ngày nay.
_watermark.jpg)
Điều đặc biệt là cả ba vị Tổ Trần Nhân Tông (1258-1308), Pháp Loa (1284-1330) và Huyền Quang (1254-1334) đều lấy chùa Vĩnh Nghiêm làm Trung tâm truyền bá Phật pháp của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Tháng 4/1308, Trần Nhân Tông đích thân tới chùa Vĩnh Nghiêm chủ trì giảng Truyền Ðăng Lục, sai quốc sư Ðạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho chư tăng kiết hạ tại đây và thống nhất Giáo hội Phật giáo thời Trần.
Tháng 9/1313, Pháp Loa phụng chiếu đến cư trú tại chùa Vĩnh Nghiêm, giữ vai trò đứng ra thành lập Trụ sở của Trung ương Giáo hội Phật giáo Đại Việt để phát triển nền đạo nước nhà. Ông đã tiến hành tuyển chọn tăng tài, phân định chức vụ tăng sĩ, bổ nhiệm cho hàng trăm chùa trong cả nước quy định mọi chức vụ tăng, ni trong Giáo hội, kiểm tra tự viện và lập sổ bộ tăng tịch để quản lý số lượng hàng ngũ xuất gia, tiếp tăng độ chúng ba năm một lần. Tất cả những Phật sự này đều do Pháp Loa trực tiếp chỉ đạo. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam tăng, ni có hồ sơ tại Giáo hội Trung ương.
Nếu Trần Nhân Tông là một nhà khai sáng, một nhà thao lược, chiến lược trong việc thiết kế đường lối chủ trương, hoạt động của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thì Pháp Loa là vị Tổ thứ hai, kiến tạo cơ sở vật chất, biên soạn kinh sách, thuyết pháp đào tạo tăng ni, thực thi xây dựng hệ thống tổ chức điều hành Giáo hội Trúc Lâm Yên Tử.
_watermark.jpg)
Năm 1305, nhân chuyến theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Thiền sư Pháp Loa thuyết pháp, Huyền Quang đã ngộ đạo, và xin xuất gia tại đây, ông đã“dâng biểu đến ba lần xin từ chức để xuất gia học đạo tu hành. Thuở ấy, vua đang tôn sùng Phật giáo nên người chấp nhận. Ngài thọ giáo với Thiền sư Pháp Loa, được pháp hiệu là Huyền Quang”. Đệ tam Tổ Huyền Quang vốn là người đọc nhiều, học rộng, tinh thông Phật pháp. Ông là nhà truyền giáo giỏi thơ văn, giúp Trần Nhân Tông biên soạn khá nhiều bộ sách về Phật học có giá trị cho Phật giáo thời đó như Chư Phẩm Kinh (tuyển tập của những phẩm kinh thiết yếu và thực dụng), Công Văn Tập (tuyển tập những bài văn sớ, điệp dùng trong các nghi lễ Phật Giáo), Thích Khoa Giáo (tập sách giáo khoa về đạo Phật)…
Với vai trò là Trường Đại học Phật giáo đầu tiên trong cả nước, chùa Vĩnh Nghiêm hiệu lưu giữ 3.050 mộc bản có giá trị trên nhiều lĩnh vực: Tôn giáo, y học, văn học, triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn tự, in ấn, mỹ thuật. Đây là bộ mộc bản gốc, duy nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử hiện còn lưu giữ được tại chùa để truyền bá tư tưởng cốt lõi của đạo Phật cho hàng trăm ngôi chùa với hàng triệu tăng, ni, phật tử từ xưa tới nay. Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm nhìn từ góc độ mỹ thuật truyền thống như một tác phẩm mỹ thuật đồ họa khắc gỗ độc lập, chứ không chỉ đơn thuần như một bản khắc chữ theo cách thức thủ công khi phương tiện khoa học kỹ thuật thời bấy giờ chưa phát triển làm phương tiện để truyền bá Phật pháp bằng văn bản tới nhiều người. Có thể phân làm ba dạng bản khắc chủ yếu, thứ nhất là những bản khắc Kinh Luật, có khung viền biên lan quanh lề trang sách, bản tâm vị trí khắc tiêu đề sách. Dạng biểu hiện này có vẻ đẹp thẩm mỹ thông qua kiểu chữ, bố cục khi mau, lúc thưa tạo khoảng nghỉ mắt trong một bố cục chật chội, vẻ đẹp của nét chữ qua bàn tay khắc tài hoa tinh tế của nghệ nhân là ngôn ngữ nghệ thuật đồ họa khắc gỗ. Dạng thứ hai gồm những bản khắc có phần chữ xen họa đồ, trên cùng một bề mặt gồm cả phần chữ xen thêm những bức họa đồ minh họa hình người. Nghệ thuật đồ họa tạo hình đóng vai trò chủ đạo. Lối bố cục chặt chẽ, hài hòa giữa chữ và hình với sự tài khéo thể hiện tinh thần trên nét mặt thanh thoát, nhẹ nhàng, chứa đựng tính triết lý cao thâm. Mỗi mộc bản là một bức đồ họa độc lập có đủ các yếu tố về nghệ thuật của tác phẩm khắc gỗ dân gian. Thứ ba là những bản khắc "Lục thù", "bùa chú" dùng trong ma chay và những nghi lễ tôn giáo, thể hiện trên bản khắc hình chữ Hán, chữ Phạn đan xem hình bát quái âm dương, hình người kỳ dị… tựa như một tác phẩm hội họa siêu thực. Dạng bản khắc này khác biệt ở nghệ thuật khắc khác với các bản khắc chữ hình họa tiết, hình chữ, hình người được khắc âm, hình nền là dương.
Một điều đặc biệt, mẫu chữ Nôm trong tác phẩm Thiền tông bản hạnh (một trong các đầu sách trong Kho Mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm), được Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm (The Vietnamese Nom Preservation Foundation, USA) lấy làm mẫu cho font chữ Nôm trên mã Unicode (kí hiệu NomNaTongLight, ttf) và được cài đặt vào máy tính trên toàn thế giới.
Hơn 700 năm qua, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã trải qua nhiều biến cố, gắn liền với sự diễn tiến thăng trầm của lịch sử Việt Nam nhưng vẫn được duy trì và phát triển. Ngày nay, tinh thần, tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử thời Trần vẫn được tăng, ni, phật tử ở Việt Nam tu học. Từ Trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm, tư tưởng của dòng thiền này lan rộng khắp các vùng miền trong cả nước và lan tỏa ra khu vực và thế giới, riêng hệ phái Thiền Tông chủ trương khôi phục Phật giáo thời Trần đã có tới hàng chục vạn người đang tu học tại hơn 60 Thiền viện, Thiền tự trong và ngoài nước. Chính vì vậy, Vĩnh Nghiêm đã trở thành đất Phật mà bao thế hệ phật tử ao ước được tới thăm: “Ai qua Yên Tử, Quỳnh Lâm - Vĩnh Nghiêm chưa tới, thiền tâm chưa đành”.
Có thể nói, chùa Vĩnh Nghiêm là Thánh tích quan trọng bậc nhất của Phật giáo Việt Nam nói chung, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng. Những tư liệu về chùa Vĩnh Nghiêm cũng như những thông tin chứa đựng trong Kho Mộc bản đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng Hồ sơ khoa học Quần thể Di tích và Danh thắng Yên Tử trình UNESCO công nhận là Di sản thế giới trong thời gian tới.
Với các giá trị tiêu biểu trên nhiều phương diện, năm 1964, chùa Vĩnh Nghiêm được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - VHTTDL) xếp hạng di tích cấp quốc gia; năm 2012, mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã được tổ chức UNESCO công nhận là là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương; năm 2013, Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được Bộ VHTTDL ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa Phi vật thể Quốc gia. Năm 2015, chùa Vĩnh Nghiêm được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. |
Có thể nói, chùa Vĩnh Nghiêm là Thánh tích quan trọng bậc nhất của Phật giáo Việt Nam nói chung, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng. Những tư liệu về chùa Vĩnh Nghiêm cũng như những thông tin chứa đựng trong Kho Mộc bản đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng Hồ sơ khoa học Quần thể Di tích và Danh thắng Yên Tử trình UNESCO công nhận là Di sản thế giới trong thời gian tới.
Khánh Huyền
Tạp chí Du lịch tháng 6/2016