Theo bước chân trần của cô gái hái rêu
Mùa rêu xanh rờn mặt nước, rêu lại mơ màng lượn bập bành như vũ nữ dưới làn nước trong vắt của ngòi Thia. Rêu bám trên đá như da con thú lành trồi lên mặt nước ngắm mùa các cô gái khăn piêu áo cóm đẹp đến nao lòng của cánh đồng rộng thứ nhì miền Tây Bắc: Mường Lò. Thi sỹ Hoàng Hạnh rủ tôi lên dự ngày hội hái rêu của Tây Bắc. Làng báo Việt Nam chắc chưa bao giờ có ai biết đến ngày hội kỳ dị, tột cùng thơ mộng và hoang thẳm này. Thế là “anh chàng bèn làm họa mi cất bước ra đi” (dân ca Mông). Tình ca của Yên Bái, đệ nhất ca của Mường Lò, chính là cái bài thơ do Hoàng Hạnh viết, nhạc sỹ Trọng Loan phổ:
“Chiều mùa thu, nắng vàng như mật
Khi đã nghe đèo Ách, cửa Nhì
Khi đã nghe tiếng rừng gió hút
Anh có vào Nghĩa Lộ với em không?”
Trong cái nắng vàng như mật của phố Cửa Nhì huyền thoại dưới chân Suối Giàng, bên dãy Hoàng Liên mây trắng ngang trời ấy, nhạc phẩm có một câu hát nữa mà người Mường Lò ai cũng thuộc:
“Kìa nước ngòi Thia, lời yêu còn đó
Xống chụ xon xao thêm vần thêm điệu”…
Lời yêu dưới ngòi Thia là gì? Cái ngòi lớn nhất Mường Lò, có chỗ nó chành ra ba góc, lòng suối rộng đến 150m, lũ về, năm 2005, đánh gẫy cả một mố cầu bê tông khổng lồ, cô lập hoàn toàn Mường Lò với tỉnh. Nhưng, theo tiếng Thái, “Thia” có nghĩa là nước mắt. Con suối là dòng nước mắt của một cô gái Thái đắm say yêu rồi không thành. Cô khóc đến độ tan xương nát thịt thành ngòi Thia. Khi chàng trai hối hận ra suối tự vẫn, chàng biến thành viên đá, còn cô gái biến thành rêu ôm ấp đời đời quanh chàng. Người Thái đứng trên bờ, tiếc thương cặp tình nhân vạn thuở, họ thấy rêu bám đá rất giống mái tóc xuân thì lõa xõa bám theo viên đá (là cái sọ đầu). Ai nhìn cũng thấy giống. Lời yêu ở nước ngòi Thia cũng kể như thế cả nhiều thế kỷ qua. Có lẽ, vì thế mà rêu suối, rêu đá ở ngòi Thia thơm thảo đệ nhất suốt chín bản mười mường của toàn cõi Tây Bắc.
Rêu suối như nàng tiên giáng thế, lỏn lẻn chân trần, chê nước lạnh, kiêng nước ấm quá, không thích bờ suối nào không chảy hoặc chảy xiết quá, hoặc đục ngầu vì rừng đầu nguồn bị phá hay các nhóm khai khoáng làm ẩu.
|
Ngòi Thia giờ nước đục, ô nhiễm, ít rêu, rêu cũng bẩn, nên bà con hầu như không lội, lặn suối trong ngày hội hái rêu nữa. Họ chuyển vào những con suối nhỏ róc rách nhập mình vào ngòi Thia, chuyển sang suối Cửa Nhì nước trong leo lẻo, đá chồm hổm sạch sẽ để hái rêu.

Bà Lò Thị Piong, 60 tuổi, người ở bản Cang Nà, thị xã Nghĩa Lộ dầm chân dưới dòng nước ấm, trong nắng vàng như mật ong, áo cóm, khăn piêu, bộ xà tích bác như một đàn rết trắng lấp lánh bên hông. Bà đang vớt rêu suối. Rêu dài miên man, dập dờn trong bụng nước, lúc vớt lên, suối Cửa Nhì còn lưu luyến lóng lánh bám nhểu nước theo. Bà Piong vắt rêu thành từng nắm. Rêu mịn mát, nắm tròn như bột lọc, bà té nước cọ sạch những hòn đá trắng lốp, đen nhóng nhánh của suối Cửa Nhì, đặt từng ụ rêu lên đó. Bà túm vạt váy Thái, lội mãi, ụ tóc tằng cẩu của bà nhấp nhô đến đâu, những nắm rêu suối lại xanh rì rải trên đá đến đó.
Xung quanh, nhiều phụ nữ khác cũng đi hái rêu.
“Cay” (rêu theo tiếng Thái) khó tính lắm, phải biết cách hái mới không nát, không hái theo cả gốc rêu, cả cỏ, hay đất đá. Phải chọn suối sạch, đầu nguồn suối không có người ở để đảm bảo vệ sinh. Mùa nước lạnh cóng hay bị nóng rực bởi nắng chảng, rêu không lên xanh, cố lấy rêu cằn nhàu nát ấy về, ăn cũng không ngon. Rêu ngon, thọc tay xuống, thấy mát rượi, êm ái, rêu mượt chạy theo dòng nước, nước đã gột rửa rêu bao nhiêu ngày tháng rồi, rêu ấy vừa ngon vừa sạch. Cái loại “tau” (rêu nổi trên mặt nước như kiểu bèo tấm) còn khó tính hơn, tuỳ theo thời tiết mà nó mọc dày, tuỳ theo thời tiết vớt về mới ăn được. Ao, suối nào mà nhiều bùn, rêu ở đó cũng không ăn được.
Bà Piong rất bất ngờ vì sự ngạc nhiên, xăng xái chụp ảnh và cười phớ phớ của chúng tôi trong hội rêu. Bởi, người Thái Mường Lò, từ thượng cổ đến giờ, họ luôn coi rêu là một thức ăn phổ biến. Rêu nướng, rêu rán, rêu phơi khô gác bếp như kiểu người Kinh cất mộc nhĩ phục vụ tết. Có gì lạ đâu? Ngày hội hái rêu vui lắm. Thầy mo xem ngày đẹp giời, tốt lộc, lúa ngô nằm ấm áp trong bồ, bà con cùng nghỉ việc đồng áng, tràn ra suối, rực rỡ váy áo vớt cái màu xanh dịu dàng, xanh ngọc ngà của sông suối lên. Rêu chất đống. Như mớ tóc dày, xanh, êm mát.
Nhiều đoàn hái rêu còn có cả lực lượng “tiếp phẩm” mang cơm nếp, thịt rang cháy cạnh ra, để cạnh các túm rêu vắt kiệt nước trên các mỏm đá. Cô gái hái rêu ngưng tay giữa suối, ăn xong lại hái. Họ tin, ai hái được nhiều rêu ngon sẽ được thần linh “vuốt ve che chở” đem đến cho những điều tốt lành. Hái rêu, đôi khi còn là một thứ nghi lễ nông nghiệp trong trẻo.
Ăn rêu trong bản Thái
Hái rêu lãng mạn bao nhiêu, thì cảnh đập rêu nhọc nhằn bấy nhiêu. Tiếng đập rêu bồm bộp, xa xăm, có lẽ nó giống như tiếng đập lụa của các thục nữ trong thơ cổ. Đập làm sao rêu không nát nhừ, màu diệp lục không xanh lè mất đi chất bổ béo của rêu trong suối, mà rêu vẫn sạch đất bùn.
Khi rêu sạch, bà Piong bắt đầu chặt rêu ra từng khúc. Ngâm trộn đủ thứ gia vị trác tuyệt của người Thái hào hoa vào, từ hạt sẻn, hạt dổi, hạt mắc khén (những thứ hạt tiêu rừng thú vị, từng nức tiếng trong ẩm thực Việt Nam); rồi đủ ớt, tỏi, gừng, lá chanh, củ xả; bà Piong sai bé Nghiệp đi hái lá dong rừng về.
Trộn thêm ít thịt mỡ vào ngàn vạn sợi rêu bị băm nhàu. Ông Biến (chồng bà Piong) đi mua ít gan lợn về ướp hương núi rừng vào rồi xiên nướng bằng xiên tre (món không thể thiếu trong ẩm thực Thái). Lá dong được rửa sạch, dùng để gói rêu và gia vị, gói “thời trân” ấy được buộc lạt tre túm hai đầu, bẻ quặt hai mép lá lại thành cái hình khum khum treo trên một thanh nẹp tre.
Đem tất cả vùi vào trong tro ấm. Chỉ vùi vào tro ấm. Bao giờ lá dong cọc cạnh giòn cháy, thì lôi thanh tre ra, bung biêng hơ cả gói rêu nướng trên than hoa. Lá dong cháy đến lớp trong cùng, mỡ và nước xanh thơm mát của rêu suối rỉ ra, thì bày tất cả ra cái đĩa. Lúc ăn mới, mùi mắc khén, hạt sẻn và mấy chục thứ gia vị cùng ngạt ngào. Riêng có rêu vẫn mát lịm, thanh tao, đặt vào đầu lưỡi, đôi khi, mái tóc người con gái ngòi Thia êm đến mức, nó cho ta cảm giác ta vừa gắp nhầm nước canh chứ không phải một đũa rêu đá.

Hương vị của rêu rất lạ. Đơn giản và tao nhã nhất là rêu rửa sạch, tẽ nhỏ, bỏ vào nước luộc gà luộc vịt, đun chín tới, ăn như ăn rau. Món rêu nướng vừa quyến rũ với nghệ thuật thứ thiệt của gia vị ẩm thực Thái, lại vừa giữ được cái mát lành, thơm thảo, dịu dàng của vị rêu suối. Món “cay pỉnh” còn “của độc” hơn: đem nguyên liệu rêu và gia vị gói vào các gói nhỏ xíu, với “vỏ” là lá lốt hoặc lá chanh. Kẹp các gói nhỏ trên thanh tre tươi trẻ đôi, nướng giòn. Rêu chín, cho vào rán với mỡ lợn.
Người Mông ở Yên Bái còn có thói quen đập cả trứng gà vào rêu để rán. Nhiều vùng bên bờ sông Mê Kông, ví như cố đô Luông Prabăng của Lào, bà con phơi khô rêu rồi rán lên nhắm rượu. Bà con người Thái, người Tày, người Mông ở Việt Nam cũng rán rêu lên như ăn bánh khoai rán giòn. Thả vào miệng, chiêu ít rượu, vị rêu tan chảy rất là ảo diệu.
Ông Lò Văn Biến, một nghệ nhân nổi tiếng của Mường Lò cho biết: “Người ta bảo, rêu đặc biệt giúp lưu thông khí huyết, giải độc, giải nhiệt và chống cao huyết áp. Người xưa truyền lại cái bí quyết: rêu, ăn vào, chống được ngã nước, sốt rét, sơn lam chướng khí. Nên những người đi rừng, nhất thiết phải nướng rêu ăn”.
“Khớp mơi lẩu” (hát mời rượu) của người Thái Mường Lò không thể thiếu món rêu suối. Cũng như ở Sơn La, bà con từng gắn bó với thú ăn hoa ban làm nộm chua vậy.
Nghe đồn, ở Việt Nam, rêu sông suối, ngon nhất vẫn là rêu sông Mã, sợi dài, màu xanh ngọc, hương vị còn kỳ ảo hơn rêu ở Mường Lò. Thôi đành lỡ hẹn, đợi mùa năm sau vậy…
Ghi chép của Đỗ Doãn Hoàng
(Nguồn: Tạp chí Du lịch)