BIỂN VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ DU LỊCH BIỂN BỀN VỮNG
Thời gian qua, du lịch biển ở nước ta đã phát triển khá mạnh với lượng khách và doanh thu tăng hàng năm, dự báo đến năm 2010 sẽ tăng lên 7-7,5 triệu lượt khách và trên 2 tỷ USD. Trong đó, du lịch biển thu hút khoảng 80% lượng khách đến Việt Nam và chiếm khoảng trên 70% doanh thu so với cá nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế với chính sách kinh tế mới, thì du khách quốc tế và nội địa sẽ tiếp tục tăng, tạo thuận lợi cho du lịch biển và du lịch sinh thái phát triển. Điều này đồng nghĩa với tăng nhu cầu phát triển du lịch biển bền vững với phương châm: sạch môi trường, đẹp văn hóa, hiện đại, dân tộc và độc đáo.
Như đã nói, môi trường biển và các hệ sinh thái (HST) của nó đã tạo ra yếu tố đầu vào cơ bản (vốn sinh thái) đối với phát triển du lịch biển. Do vậy, tính bền vững trong phát triển phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và mức độ bảo toàn nguồn vốn này. Trên thực tế, các chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển được đưa ra biển nước ta ngày càng nhiều, kéo theo các chất có thể gây ô nhiễm biển, như: chất hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc hại khác. Đến năm 2010, dự tính lượng chất thải sẽ tăng rất lớn ở vùng nước ven bờ, trong đó dầu khoảng 35.160 tấn/ngày, nitơ 26-52 tấn/ ngày và amonia 15-30 tấn/ngày... Sự tăng nhanh về số lượng tầu thuyền gắn máy loại nhỏ, công suất thấp, cũ kỹ và lạc hậu đã đóng góp khoảng 70% lượng dầu thải trong biển. Sự cố tràn dầu và thải dầu cặn cũng đã xảy ra, từ năm 1994 - 2006 đã xác định được trên 50 vụ tràn dầu với số lượng dầu tràn hàng nghìn tấn. Hàm lượng hóa chất bảo vệ thực vật tích lũy trong cơ thể các loài sinh vật thân mềm ngày càng cao đã tạo mối nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng và du khách. Hiện tượng thủy triều đỏ thường xuất hiện từ tháng 6 đến trung tuần tháng 7 âm lịch tại vùng biển Nam Trung bộ, đặc biệt là tại Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, mà người dân địa phương gọi là “mùa bột báng”. Có nơi nước biển ven bờ nhầy nhụa bột báng mầu xám đen dầy cả tấc, trộn với xác chết của sinh vật tạo nên hàm lượng phù sa lơ lửng, nên chất lượng môi trường biển và vùng ven bờ biển tiếp tục suy giảm theo chiều hướng xấu và đã không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng tài nguyên du lịch biển (nước, bãi tắm...), mà còn ảnh hưởng đến mỹ quan và sức khỏe của du khách.
Dưới sức ép của các hoạt động phát triển và thói quen khai thác tài nguyên thiếu thân thiện, diện tích rừng ngập mặn (RNM) ngày càng bị thu hẹp, môi trường rừng bị suy thoái. Cả nước hiện chỉ còn khoảng 155.290 ha. Bên cạnh đó, rạn san hô đang bị khai thác quá mức bằng các phương tiện mang tính hủy diệt như đánh mìn, sử dụng hoá chất độc hại... Theo cảnh báo, 80% HSH biến nước ta nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở tình trạng rủi ro cao, và đến nay chỉ 20% còn ở mức tốt và rất tốt. Tình trạng trên cũng diễn ra tương tự với HST thảm cỏ biển. Tính liên kết chức năng hai chiều của các HST biển - ven biến đang có chiều hướng bị phá vỡ, gây ra tác động kiểu phản ứng “nhiệt hạch” và biển nước ta có nguy cơ trở thành “thủy mạc”, gây tổn thất nguồn giống tôm cá và nguồn vốn phát triển du lịch biển.
Như chúng ta đều biết, tài nguyên biển là dạng tài nguyên chia sẻ (shared resources) và thường bị “khai thác tự do”. Do vậy, mâu thuẫn lợi ích giữa phát triển du lịch biển và các ngành khác ở vùng ven bờ và các đảo có chiều hướng gia tăng. Thiếu sự phối hợp liên ngành trong sử dụng và quản lý tài nguyên ven biển, biển và đảo nên không ít nơi có tiềm năng du lịch biển lại nằm cạnh các cảng/ biến, khu nuôi trồng và khai thác thủy sản... gây tác động tiêu cực lẫn nhau. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào phát triển và quản lý du lịch biển còn rất hạn chế và thụ động. Đặc biệt, trong tình hình thực thi pháp luật trên biển và ở vùng ven bờ nước ta còn yếu, chính sách quản lý môi trường biển còn chưa đồng bộ, vẫn còn khoảng 1,8 triệu dân ven biển nghèo đói trong khi sinh kế của họ gắn chặt với nguồn tài nguyên biển; dân trí của người dân ven biển và hải đảo thấp và nhận thức của du khách còn yếu thì việc phát triển du lịch biển bền vững theo hướng công nghiệp hóa và hội nhập sẽ còn gặp không ít khó khăn. Thí dụ, tại khu Di sản Thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long có ba làng cá nối với hơn 500 hộ gia đình. Chất thải sinh hoạt và lượng thức ăn dư thừa trong nuôi trồng thủy sản lồng bè từ các làng nổi như vậy cùng tác động đến môi trường xung quanh.
Các giá trị văn hóa biển truyền thống như lễ hội nghề cá, chọi trâu: các di tích văn hóa, lịch sử nổi tiếng ven biển như đền thờ, miếu mạo mang sắc thái biển (đền thờ Ông Cá Voi, thú biển...), các kiểu văn hóa làng chài, các thành tựu kinh tế qua các hội chợ triển lãm ở các thành phố ven biển... Đây cũng là những điều kiện hấp dẫn khách du lịch ra biển với nhiều mục tiêu trong một kỳ nghỉ, nhưng đến nay chưa được phát huy và lồng ghép vào kế hoạch phát triển du lịch biển bền vững.
Nằm trong khu vực biển có tính khắc nghiệt về mặt thời tiết, khí hậu, nên nước ta thường chịu nhiều rủi ro thiên tai (bão lũ, sóng thần...). Nước ta cũng được cảnh báo về nguy cơ sóng thần và ngập lụt nặng nề từ kịch bản của nước biển dâng do hiệu ứng nhà kính của sự ấm lên toàn cầu. Các đợt nắng nóng kéo dài trong các năm gần đây đã khiến cho nhiệt độ nước biển trong mùa hè (tháng 5 và 8) ở nước ta cao hơn nhiều so với mức thông thường. Nước biển ấm lên làm thay đổi điều kiện sinh thái biển và dẫn đến san hô bị chết trắng hàng loạt ở nhiều vùng biển trong cả nước. Nước biển dâng cao và ấm lên sẽ làm ngập và phá hủy các HST ven biển... và các ốc đảo san hô ngoài khơi, gây ra “thảm họa” sinh thái và triệt hại nguồn vốn tự nhiên đối với phát triển du lịch biển bền vững.
TĂNG CƯỜNG TÍNH LIÊN NGÀNH TRONG PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN LÝ DU LỊCH
Cần rà soát lại chiến lược và kế hoạch phát triển du lịch biển phù hợp với tinh thần của chương trình Nghị sự 21 về định hướng phát triển bền vững quốc gia, phù hợp với tinh thần của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 thông qua việc lồng ghép các kịch bản rủi ro tự nhiên và nhân sinh. Căn cứ vào đó, xây dựng các chiến lược phát triển du lịch biển lâu dài và các phương án ứng phó và thích ứng (resilience) với các khả năng tác động của các rủi ro nói trên.
Tăng cường tính liên ngành trong phát triển và quản lý du lịch biển vì lợi ích chung và lâu dài thông qua các công cụ chính sách, quy hoạch lồng ghép; phối hợp thành lập và quản lý các khu bảo tồn ven biển và biển - đảo để bảo toàn chức năng sinh thái của vùng biển và vốn sinh thái cho phát triển du lịch biển bền vững.
Đa dạng hóa các loại hình du lịch biển trên cơ sở khai thác các giá trị chức năng của HST biển - ven biển, tận dụng các yếu tố văn hóa - xã hội biển để tạo ra sản phẩm du lịch mới, có chất lượng và bền vững. Thí dụ, xây dựng các làng văn hóa nghề cá mang bản sắc Việt, câu cá và đánh cá giải trí, du lịch lặn, du lịch ngắm xem, hưởng ngoạn trong các khu bảo tồn ven biển, biển, đảo.
Tăng cường nâng cao nhận thức cho cộng đồng địa phương ven biển và tạo cơ hội cho họ tham gia vào các hoạt động du lịch biển bền vững hoặc phát triển du lịch cộng đồng nhằm chuyển đổi nghề nghiệp, cải thiện sinh kế và góp phần xóa đói giảm nghèo cho họ.
Tăng cường nâng cao nhận thức cho du khách về du lịch biển bền vững, giảm thiểu các hành vi gây hại của du khách đối với môi trường và tài nguyên biển, cũng như cách ứng xử thiên tai, rủi ro.
Xúc tiến quản lý du lịch biển theo cách tiếp cận tổng hợp nhằm giảm thiểu tác động từ các hoạt động của các ngành kinh tế khác đến chất lượng sản phẩm du lịch, và chính từ hoạt động du lịch biển đến môi trường và tài nguyên biển.
Ban hành các cơ chế chính sách bảo toàn và gia tăng “nguồn vốn sinh thái biển” cho đất nước, phục hồi và phát triển các HST và giá trị tài nguyên biển liên quan tới phát triển du lịch biển - đảo thông qua việc triển khai các dự án: phục hồi HSTằnng ngập mặn, rạn san hô, vùng, vịnh...), tiến hành xây dựng thí điểm san hô nhân đạo...
NGUYỄN CHU HỒI
Phó Tổng cục trưởng
Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam