Do mức độ tiếp cận của chương trình vẫn còn hạn chế, những địa phương không triển khai hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, độ bao phủ về xét nghiệm HIV còn hạn chế, người dân ở xa khó tiếp cận dịch y tế, do đó khả năng người nhiễm HIV chưa được xét nghiệm HIV và không biết tình trạng nhiễm HIV vẫn còn đáng kể.
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, đối với mô hình dịch HIV/AIDS tập trung như Việt Nam cần tập trung ưu tiên triển khai các hoạt động giám sát gồm ước tính quần thể nhóm nguy cơ, giám sát ca bệnh, giám sát trọng điểm, giám sát hành vi. Việt Nam đã cơ bản triển khai tất cả các hoạt động theo khuyến cáo. Tuy nhiên, do đặc điểm của đối tượng nguy cơ là người nghiện chích ma túy, phụ nữ bán dâm, nam có quan hệ tình dục đồng giới, do đó việc tiếp cận và đảm bảo chất lượng số liệu giám sát trên các nhóm này rất khó khăn.
Mức độ tiếp cận với chương trình còn hạn chế: chỉ đạt trung bình khoảng 50 -60% đối với chương trình bơm kim tiêm, 40 - 50% đối với chương trình bao cao su; chương trình điều trị Methadone mới có 43 cơ sở, với 9.572 người. Mặt khác, mô hình triển khai chưa đa dạng làm giảm khả năng cung cấp dịch vụ cho người nghiện các chất dạng thuốc phiện.
Dịch vụ điều trị HIV: hiện tại có 308 cơ sở điều trị HIV/AIDS, trong đó có 162 cơ sở thuộc tuyến huyện. Như vậy, mới có 25% số huyện cung cấp dịch vụ điều trị HIV/AIDS bằng ARV.
Dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con: Hiện tại có 227 cơ sở dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, trong đó có 133 cơ sở thuộc tuyến huyện, chiếm 20% số huyện.
Hệ thống cung cấp dịch vụ điều trị HIV/AIDS: Ngày 26/1/2011 Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 09/2011/TT-BYT về việc Hướng dẫn điều kiện và phạm vi chuyên môn của cơ sở y tế điều trị bằng thuốc ARV. Tuy nhiên, hiện chỉ có gần 50% các cơ sở điều trị đáp ứng được các điều kiện của Thông tư này. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho người nhiễm HIV qua hệ thống bảo hiểm y tế. Đặc biệt trong bối cảnh các nguồn viện trợ cung cấp dịch vụ cho điều trị HIV (xét nghiệm, sinh phẩm, thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội...) đang bị cắt giảm, việc cung cấp dịch vụ qua hệ thống bảo hiểm y tế được xem như là nguồn chính nhằm duy trì sự bền vững của công tác điều trị HIV/AIDS. Nhiều cơ sở y tế chưa thực sự xác định điều trị HIV/AIDS là một trong các nhiệm vụ của cơ sở mình. Điều này dẫn đến việc quản lý điều trị bệnh nhân HIV/AIDS chưa thực sự nằm trong hệ thống quản lý bệnh nhân chung trong cùng cơ sở y tế.
Để đạt được việc loại trừ sử dụng d4T vào tháng 6/2013 đồng thời đảm bảo lượng thuốc thay thế d4T đủ cung cấp cho bệnh nhân, Cục Phòng, chống HIV/AIDS đã ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn về việc chuyển đổi thuốc d4T. Tuy nhiên hiện tại nhiều cơ sở điều trị, đặc biệt là các cơ sở có số lượng bệnh nhân điều trị d4T cao, đã thực hiện việc chuyển đổi không theo hướng dẫn. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc dư thừa d4T và thiếu hụt nguồn thuốc thay thế d4T. Tình trạng thuyên chuyển cán bộ dược liên quan đến công tác quản lý và cấp phát thuốc ARV đã dẫn đến công tác dự trù, báo cáo thuốc ARV còn chưa đạt hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu điều trị thực tế tại cơ sở.
Tình trạng phân biệt, kỳ thị đối xử đối với người nhiễm HIV/AIDS vẫn còn cao, làm ảnh hưởng đáng kể tiếp cận với dịch vụ điều trị của người nhiễm HIV, rào cản cho việc xét nghiệm phát hiện HIV sớm và chuyển gửi đến dịch vụ chăm sóc điều trị.
Kinh phí triển khai cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS từ Chương trình mục tiêu quốc gia và của các tỉnh vẫn ở mức thấp, những tỉnh không có dự án quốc tế triển khai gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh kinh phí thấp, định mức chi tiêu quy định năm 2007 đến nay không còn phù hợp, do đó việc triển khai chương trình mục tiêu lại gặp khó khăn hơn. Ngoài ra, chương trình phòng, chống HIV/AIDS dựa vào nhóm cộng tác viên và tuyên truyền viên đồng đẳng được chứng minh có hiệu quả cho chương trình giảm hại, trong khi chế độ, chính sách dành cho các tuyên truyền viên đồng đẳng và cộng tác viên trực tiếp tham gia chương trình quá thấp gây khó khăn cho việc tuyển chọn. Tỷ trọng ngân sách cho phòng, chống HIV/AIDS hiện nay do tài trợ nước ngoài khá lớn, khi Việt Nam thoát khỏi tình trạng nước nghèo, nguồn viện trợ sẽ bị cắt giảm, do đó cần có các giải pháp để huy động nguồn lực đảm bảo tính bền vững của chương trình, thoát ra khỏi “cái bẫy của nước thoát nghèo”.
Chương trình phòng, chống HIV/AIDS đang thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ cán bộ tại tất cả các tuyến. Sự thiếu hụt nhân lực là rào cản cho việc mở rộng chương trình điều trị và công tác can thiệp giảm tác hại. Trong khi số cán bộ có trình độ và kinh nghiệm được tuyển dụng thêm ít, các cán bộ kinh nghiệm và năng lực xin chuyển công tác khác hoặc chuyển lĩnh vực khác, nguyên nhân chính do công việc căng thẳng và vất vả, trong khi thu nhập còn quá thấp, đãi ngộ ngành nghề, phụ cấp đặc thù, phụ cấp vùng miền và phụ cấp thâm niên chưa có.
A.T