Hệ thống đảo của nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng
Biển nước ta có hơn 3000 đảo lớn, nhỏ với tổng diện tích khoảng 1.700km2. Các đảo được cấu tạo bởi các thành tạo địa chất tuổi khác nhau, nên hình thù và các đặc trưng về đất, đá cũng rất khác nhau. Độc đáo nhất là quần thể đảo đá vôi bị karst hóa với các giá trị toàn cầu và quốc gia phân bố tập trung ở khu vực vịnh Bái Tử Long, vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), quần đảo Cát Bà và quần đảo Long Châu (Hải Phòng)
Đảo là một loại hình hệ sinh thái đặc thù, chúng hợp thành cụm đảo, quần đảo và hệ thống đảo quốc gia. Hệ thống đảo của nước ta phân bố tự nhiên thành các tuyến, ngoài cùng là “tấm bình phong” Hoàng Sa và Trường Sa. Cho nên, về ý nghĩa kinh tế có thể ví mỗi hòn đảo là “một hòn ngọc xanh” trên nền biển bạc, về mặt chủ quyền mỗi hòn đảo như “một cột mốc chủ quyền tự nhiên” của quốc gia và về mặt an ninh quốc phòng, mỗi đảo như “một chiến hạm” không thể đánh chìm. Các tuyến đảo và quần đảo như vậy không chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm soát các tuyến đường biển qua lại biển Đông mà còn có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với đất nước.
Nhiều cụm đảo ở nước ta có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế biển - đảo và dịch vụ hậu cần cho các hoạt động biển xa nói chung và cho các hoạt động khai thác biển cũng như hoạt động du lịch quốc gia nói riêng. Các cụm đảo và khu vực ven biển nước ta kết hợp tạo ra những khu vực có lợi thế địa lý rất quan trọng cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và bảo vệ an ninh chủ quyền vùng biển tổ quốc.
Các đảo/cụm đảo có lợi thế địa lý, diện tích lớn, đông dân cư như Phú Quốc, Vân Đồn, Côn Đảo, Cát Bà, Lý Sơn… có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế hải đảo toàn diện, hiện đại. Các khu kinh tế đảo như vậy đóng vai trò như những “cực phát triển” và có bán kính ảnh hưởng lan tỏa ra vùng biển xung quanh và là các “mối tiếp nối” quan trọng giữa dải ven biển và các vùng biển phía ngoài trong bình đồ tổ chức không gian biển cho phát triển kinh tế cả nước.
Bên cạnh các giá trị cảnh quan nổi, quanh đảo còn quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi hải sản, đối với phát triển nghề cá nói chung, nghề cá giải trí nói riêng và du lịch biển-đảo. Trên đảo có các làng cá, di tích văn hóa và lịch sử thuần Việt phản ánh “văn hóa vạn chài” hay còn gọi chung là “văn hóa ứng xử biển cả”, góp phần tạo ra các giá trị du lịch nghề cá.
Vấn đề khai thác, sử dụng các đảo ở nước ta
Hiện nay, các đảo đẹp và đắt giá trên thế giới được chọn và công nhận hàng năm đều là những hòn đảo thường không có sự sống của con người, có nghĩa là kinh tế đảo phải dựa trên các giá trị và gắn với bảo tồn thiên nhiên biển, đảo. Nói cách khác, trục chính của kinh tế đảo nói chung và đặc biệt đối với các đảo nhỏ trong trường hợp của nước ta là du lịch sinh thái gắn với nghề cá giải trí và bảo vệ chủ quyền biển đảo. Các hoạt động khác được xem là những dịch vụ hỗ trợ cần phát triển nhưng không phải là “mũi nhọn” trong dài hạn. Tùy thuộc lợi thế vùng miền, mỗi cụm đảo và từng đảo riêng biệt, khi quy hoạch chúng ta phải chú ý khai thác tính đặc thù, lợi thế so sánh để không mắc bệnh “hội chứng” trong phát triển.
Như vậy, bên cạnh chức năng kinh tế thì đảo có các chức năng quan trọng khác cần phải kết hợp khi lập kế hoạch khai thác, sử dụng. Phát triển kinh tế đảo hiệu quả sẽ giữ được dân, người dân yên tâm sống lâu dài trên đảo và bám biển góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc. Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền ở khu vực biển Đông phức tạp và kéo dài, với một nước nhỏ như Việt Nam thì vấn đề “chủ quyền dân sự” cần phải được coi trọng dựa trên nền tảng chiến lược kinh tế biển, đảo đúng đắn và vững chắc với một tầm nhìn dài hạn. Đến nay, vấn đề như vậy còn khá mờ nhạt cả về mặt nhận thức lẫn hành động, dù chúng ta đã làm được không ít việc cụ thể đề giải quyết các tình thế, đáp ứng các mục tiêu ngắn hạn.
Bài học cho Việt Nam
Trên thế giới và có lẽ ở ngay Việt Nam đã xuất hiện một số thực tiễn tốt chúng ta có thể nhận thấy từ việc phát triển chuỗi đô thị ven biển từ Bắc vào Nam theo mô hình: cảng - khu kinh tế - đô thị - biển khi người Pháp tổ chức lãnh thổ cho vùng duyên hải Việt Nam. Bốn yếu tố cơ bản trong mô hình này là các mảng không gian kinh tế riêng nhưng luôn tác động tương hỗ nhau cùng phát triển trong một “khuôn khổ phát triển toàn diện” (comprehensive development framework – CDF) hướng tới lợi ích chung trong dài hạn.
Thành phố Hải Phòng ra đời từ bến nhỏ Ninh Hải (Cảng Hải Phòng ngày nay) cách đây gần 130 năm và hiện nay đang hướng tới xây dựng một “Thành phố cảng xanh” dựa trên tính trội về biển, đảo. Gần đây, một Đà Nẵng “thay da, đổi thịt” trên nền tảng của mô hình cảng - đô thị xưa nhờ thay đổi nhận thức và tư duy quy hoạch, chú trọng các “lợi thế động” của một hệ thống cơ chế, chính sách mở và hiệu quả. Đà Nẵng đã đánh thức tiềm năng sông Hàn và vịnh Hàn thông qua phát huy tính đa dụng của mỗi cây cầu, của mỗi hệ thống tự nhiên/nhân sinh nhỏ trong tổng thể không gian thành phố nên không chỉ là một thành phố “đáng sống” mà thậm chí mỗi cây cầu nơi đây ngoài chức năng để đi, còn là một công trình văn hóa - kiến trúc và một điểm đến của du khách gần xa,…
Hiện nay, Chính phủ chủ trương đánh thức tiềm năng dải ven biển và hệ thống đảo ven bờ miền Trung bằng việc phát triển chuỗi đô thị gắn với cảng nước sâu. Đây là một chủ trương đúng đắn và mang tầm chiến lược, phù hợp với thực tiễn phát triển của nước ta, phát huy được các bài học về mô hình tổ chức không gian kinh tế ven biển nói trên trong bối cảnh hội nhập và chủ trương công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước. Chuỗi đô thị ven biển gắn với cảng nước sâu và khu kinh tế với một lộ trình đầu tư hiệu quả sẽ tạo ra “nhu cầu nội vùng” cho miền Trung - một khu vực còn “yếu thế” về khả năng “cung” cho kinh tế biển, nhưng lại có “lợi thế tĩnh” về tiềm năng phát triển cảng biển, gần tuyến hàng hải quốc tế và khu vực.
Phù hợp với xu thế thời đại, để thực hiện các chiến lược và kế hoach hành động tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2014 - 2020, trong lĩnh vực biển đảo Việt Nam phải từng bước khôn khéo chuyển từ “kinh tế biển nâu” sang “kinh tế biển xanh” dựa vào bảo tồn thiên nhiên và văn hóa biển, đảo. Khi ấy, các ngành nghề mới sẽ xuất hiện, tạo ra công ăn việc làm mới cho người dân ven biển, trên các đảo, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế người dân, làm thay đổi nhận thức và hành vi cá nhân, người dân sẽ bám biển làm giàu cho gia đình, quê hương và bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước.
Để làm được điều này, cần đưa ra các giải pháp chính sách hơn, cơ chế chính sách đặc thù mở hơn đối với biển, đảo nhằm tạo ra những lợi thế động cho một nền kinh tế biển, đảo hiệu quả và bền vững. Trong đó, độ mở về thể chế, nâng cao đẳng cấp công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế biển, đảo là những việc cần ưu tiên thực hiện sớm với cách làm bài bản.
Phát triển kinh tế biển, đảo nhanh mạnh, hiệu quả và bền vững chính là để khẳng định khả năng làm chủ thực tế trên những vùng biển, đảo Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Đây cũng là cách tốt nhất thực hiện chủ quyền dân sự của Việt Nam trên biển, tạo điều kiện hiện diện dân sự, góp phần thực hiện một nền quốc phòng toàn dân trên biển.
PGS. TS. Nguyễn Chu Hồi
(Tạp chí Du lịch)