Các bài bản của đờn ca tài tử được sáng tạo dựa trên cơ sở nhạc lễ, nhạc cung đình, nhạc dân gian miền Trung và Nam. Các bài bản này được cải biên liên tục từ 72 bài nhạc cổ và đặc biệt là từ 20 bài gốc (bài Tổ) cho 4 điệu (hơi), gồm: 6 bài Bắc (diễn tả sự vui tươi, phóng khoáng), 7 bài Hạ (dùng trong tế lễ, có tính trang nghiêm), 3 là Nam (diễn tả sự an nhàn, thanh thoát) và 4 bài Oán (diễn tả cảnh đau buồn, chia ly).
Nhạc cụ được sử dụng trong đờn ca tài tử gồm: đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn tỳ bà, đàn tam (hoặc đàn sến, đàn độc huyền), sáo, tiêu, song loan... Từ khoảng năm 1930 có thêm đàn ghìm phím lõm, violon, ghi ta Hawaii (đàn hạ uy cầm).
Đờn ca tài tử được thực hành theo nhóm, câu lạc bộ và gia đình, nhạc công thường song tấu, tam tấu, hòa tấu. Dàn nhạc thường cùng ngồi trên một bộ ván hoặc chiếu để biểu diễn với phong cách thảnh thơi, lãng đãng, dựa trên khung bài bản cố định gọi là "lòng bản". Khán giả có thể cùng tham gia thực hành, bình luận và sáng tạo.
Người miền Nam coi đờn ca tài tử là sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, tết, giỗ, cưới, sinh nhật, họp mặt,... Lễ giỗ Tổ được tổ chức vào ngày 12/8 âm lịch hàng năm. đờn ca tài tử luôn được bổ sung, làm mới bằng cách kế thừa, kết hợp giá trị âm nhạc cung đình, dân gian; đồng thời giao lưu, tiếp biến các yếu tố văn hóa của người Khmer, Hoa và phương Tây.
Đờn ca tài tử là loại hình sinh hoạt văn hóa gắn kết cộng đồng, phản ánh tâm tư, tình cảm và phù hợp với lối sống cần cù, phóng khóang, cởi mở và can trường của người dân Nam Bộ. Thông qua việc thực hành đờn ca tài tử, các tập quán xã hội khác như: lễ hội, văn hóa truyền khẩu, nghề thủ công,... cũng được bảo tồn và phát huy.
Năm 2013, nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
VH