.jpg)
Nghề thắt nón đã có từ lâu và là nghề truyền thống của làng Chuông. Nón được làm từ nguyên liệu chính là lá cọ. Người làng Chuông phải cất công vận chuyển lá cọ từ những cánh rừng ở Phú Thọ, Thanh Hóa, Quảng Bình về làng Chuông để làm nón. Nón lá làng Chuông bền và chắc, màu trắng đục, vành nón được nức bằng cước màu đỏ
Cái quý giá của nón lá làng Chuông là sự tỉ mỉ trong từng công đoạn. Để hoàn thành một chiếc nón thành phẩm, người thợ làm nón phải trải qua nhiều công đoạn như rẽ lá, là lá, bứt vòng, quay nón, dán nón, khâu nón, sửa nón hoặc nứt nón, lồng nhồi, quang dầu. Quang dầu là khâu cuối cùng làm cho nón bóng đẹp hơn trước khi đưa ra thị trường.
Theo những nghệ nhân thắt nón trong làng thì công đoạn làm lá là công đoạn vất vả khó khăn nhất bởi phải làm thủ công để lá không bị dập rách. Lá cọ được người thợ dùng chân khéo léo vò trong cát khô có sỏi, đảo qua đảo lại đến khi lá mềm và đầu lá xoăn lại, mình lá tẽ ra mới đạt được chuẩn. Người làm lá rất vất vả, nắng quá hay mưa quá lá đều không đẹp, nắng quá thì lá sẽ bị đỏ, ra nón thành phẩm sẽ không được bóng đẹp. Phơi lá cũng phải thật cẩn thận, tách lá tươi từ màu xanh sau quá trình phơi dưới ánh nắng mặt trời sẽ dần chuyển thành màu trắng.
.jpg)
Người làng Chuông ai cũng có thể làm công đoạn rẽ lá vì đây là công đoạn dễ nhất. Một chiếc nón lá đẹp là lá phải phẳng nên người thợ phải ủi lá. Họ dùng khăn nhúng nước hơ trên lửa cho nóng rồi mới ủi lá. Để chiếc nón cân đối, người làm nón phải sử dụng chiếc khung gỗ có 8 gọng, trên mỗi gọng có 16 khấc đều nhau để đặt các vòng nón. Vòng nón được làm bằng những thanh tre cật vót tròn nhẵn và đều, các vòng tròn nhỏ dần đến chóp tạo ra khung nón, thường mỗi nút buộc dùng mây để buộc chắc chắn.
Công đoạn làm khung nón được cho là khó nhất vì nó quyết định đến độ tròn và chắc của nón. Nón làng Chuông trông đơn giản nhưng đòi hỏi rất công phu, tỉ mỉ. Một chiếc nón đẹp thì đầu tiên cỗ vòng phải tròn, thứ hai là dây lá phải phẳng và trắng, thắt nón phải nhẵn và mau.
Quay nón là công đoạn xếp lá lên khung, là công đoạn xử lý thô cuối cùng cho chiếc nón. Các tập lá được xếp lại cắt vát một đầu rồi dùng ghim cố định lại trên chóp nón, sau đó bắt đầu quay lá, nhìn thì đơn giản nhưng người thợ khâu nón luôn phải làm việc rất cẩn thận. Quay nón và khâu nón là hai quy trình đòi hỏi kỹ thuật cao nhất của nghề làm nón. Thời gian khâu khoảng 4 tiếng đồng hồ cho một sản phẩm. Ngày xưa người ta thường khâu móc, khâu dừa, giờ khâu bằng cước. Khâu phải đều mũi và nhẵn, không lộ chân kim thì chiếc nón mới đẹp.
Sản phẩm nón làng Chuông chủ yếu phục vụ người dân miền Bắc. Khác với sản phẩm nón Huế, nón làng Chuông có hai lớp dày dặn hơn. Nón làng Chuông ngoài nón trơn cũng có nón cách điệu, phía bên trong nón có một lớp bóng và trang trí hoa. Ngoài nón lá phổ thông thì sản phẩm nón làng Chuông còn có nón lá già. Nón lá già chủ yếu phục vụ người già và những người đi làm ruộng vì nó thường bền chắc hơn.
Làng Chuông hàng tháng có 6 phiên chợ. Vào những ngày phiên chợ họp người ta thường thấy những chồng nón trắng cao gần bằng người và tất cả những nguyên liệu làm nón được bày bán khắp sân đình.
Đối với người dân làng Chuông, nón là niềm tự hào, là cơ nghiệp. Thế hệ trẻ ở làng Chuông đều biết làm nón, nhưng do nghề làm nón cần sự nhẫn nại, kiên trì, xong giá thành sản phẩm lại không cao nên nhiều bạn trẻ đã không thể theo đuổi với nghề. Nhưng hiện nay vẫn có những cụ già đã ngoài 80 tuổi cần mẫn với nghề với mong muốn nghề làm nón không bị thất truyền.
Lam Sương