Phát triển du lịch gắn với tăng trưởng xanh kinh nghiệm quốc tế và bài học cho vùng duyên hải Bắc Bộ
Maldives thực hành mô hình du lịch xanh
Sở hữu trên 90% diện tích là mặt biển với cảnh quan tuyệt đẹp, với vùng đảo san hô trải rộng trên 90.000km2, bao gồm 26 đảo lớn và khoảng trên 1.200 hòn đảo nhỏ, Maldives đã trở thành thiên đường du lịch với dịch vụ chuyên nghiệp và đẳng cấp. Tuy nhiên, trên thực tế Maldives đang phải đối mặt với nhiều trở ngại thường trực: nước biển dâng cao đang đe dọa sự tồn tại của quần đảo khi có hơn 80% trong số 1.200 hòn đảo chỉ có độ cao chưa đầy 1m so với mực nước biển; xói mòn bờ biển đe dọa 70% cơ sở hạ tầng và nhà cửa, cơ sở dịch vụ; xâm nhập mặn làm ô nhiễm nguồn nước ngọt quý giá; sóng thần... Với hơn 500.000 cư dân sống rải rác trên các đảo cùng khoảng 2 triệu khách du lịch lưu trú dài ngày hàng năm thì việc cung cấp dịch vụ đã thực sự đe dọa cạn kiệt tài nguyên.
Ý thức được điều này, Chính phủ và người dân Maldives đã tìm cách chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH), và họ đã chọn cách nương theo biến đổi của tự nhiên thay vì kháng cự nó qua nhiều biện pháp như: đưa giáo dục môi trường vào chương trình giáo dục phổ thông, với những chương trình học thực địa để người học có trải nghiệm sinh động về bảo tồn, giữ gìn hệ sinh thái biển; thực hiện quy hoạch xanh (quy hoạch đô thị theo phương Bắc - Nam để giảm hấp thụ nhiệt; đường phố được bố trí theo hướng tiếp nhận gió tối ưu với làn đường dành cho xe đạp, xe bus điện; đô thị phải khai thác ít nhất 1/3 năng lượng mặt trời và hứng nước mưa để củng cố an ninh nguồn nước...); sử dụng hạ tầng kỹ thuật số với công nghệ cáp quang GPON (mạng quang thụ động Gigabit) cho phép chính quyền kiểm soát và điều phối việc sử dụng năng lượng, xử lý các vấn đề môi trường một cách khoa học và nhanh nhất.
Bên cạnh đó, Maldives nỗ lực sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo (gió, mặt trời) để giảm lượng khí thải cac-bon và chi phí phát điện, phấn đấu đến năm 2030 sẽ từ bỏ hoàn toàn các nguồn năng lượng hóa thạch; áp dụng công nghệ lọc nước biển thành nước ngọt và hệ thống hứng, thu gom nước mưa; xử lý nước và chất thải; cấp chứng nhận nhãn Travelife Gold cho các resort đảm bảo các tiêu chí xanh; giám sát chặt chẽ tất cả các hoạt động sản xuất, sinh hoạt để giảm thiểu tác động đến môi trường (được thực hiện bởi Cơ quan Bảo vệ Môi trường của Maldives)...
Việc Maldives bơm hàng triệu khối cát từ đáy biển để bồi đắp đảo đã phá hủy các rạn san hô. Đây là một lựa chọn mà Maldives phải chấp nhận đánh đổi, nếu không khoảng 200 hòn đảo sẽ bị nhấn chìm vào năm 2100 với tốc độ nước biển dâng theo tính toán của các nhà khoa học.
Phát triển du lịch xanh tại Thái Lan
Thái Lan là quốc gia dẫn đầu trong khu vực về những ý tưởng làm du lịch xanh. Phát triển du lịch tại Thái Lan dựa trên 7 khái niệm thành phần:
1. Tâm Xanh (Green heart): Kêu gọi khách du lịch nâng cao nhận thức về du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội.
2. Vận chuyển Xanh (Green Logistics): Khuyến khích sử dụng các phương tiện vận chuyển thân thiện với môi trường phục vụ cho du lịch.
3. Điểm đến Xanh: Quảng bá các điểm du lịch được quản lý theo nguyên tắc có trách nhiệm và bảo vệ môi trường.
4. Cộng đồng Xanh (Green Community): Hỗ trợ loại hình du lịch cộng đồng ở cả thành thị và nông thôn gắn với thúc đẩy bảo tồn môi trường, truyền thống và lối sống địa phương.
5. Hoạt động Xanh (Green Activities): Thúc đẩy các hoạt động du lịch phù hợp với cộng đồng và có sự tham gia của cộng đồng địa phương.
6. Dịch vụ Xanh (Green Service): Kêu gọi các bên liên quan cung cấp dịch vụ du lịch tạo ấn tượng và truyền cảm hứng mạnh mẽ thông qua việc thể
hiện sự tôn trọng, quan tâm bảo vệ môi trường.
7. Phương pháp tiếp cận Xanh vượt trội (Green Plus): Khuyến khích doanh nghiệp tăng cường trách nhiệm xã hội, giảm thiểu các hoạt động gây hại tới môi trường, tăng cường các sáng kiến tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng tái tạo, cung cấp các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Bên cạnh đó, Thái Lan còn là quốc gia đi đầu trong đẩy mạnh phát triển du lịch nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khỏe cộng đồng để thực hiện các chương trình du lịch xanh, gồm các hình thức du lịch sinh thái, du lịch nông trại và du lịch nông nghiệp. Sáu tỉnh Chieang Mai, Nong Khai, Si Sa Ket, Chanthaburi, Phatthalung, Ratchabu đã được lựa chọn phát triển thành “những đô thị nông nghiệp xanh”. Thái Lan đã dựa trên cơ sở quan điểm về “nền nông nghiệp xanh tiết kiệm và không có rác thải” để hình thành các “thành phố hữu cơ” với trọng tâm là du lịch xanh, nông nghiệp xanh.
Bài học kinh nghiệm cho vùng DHBB
Vùng DHBB có nguồn tài nguyên phong phú, hệ sinh thái đa dạng, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích văn hóa - lịch sử giá trị, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, do môi trường và địa hình của khu vực DHBB rất nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng tiêu cực từ hoạt động du lịch và chịu tác động của BĐKH, nên việc phát triển du lịch theo hướng TTX là hướng đi phù hợp và thực sự cần thiết. Từ các mô hình phát triển du lịch xanh nêu trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho phát triển du lịch theo hướng TTX vùng DHBB ở Việt Nam như sau:
Tổ chức hoạch định và thực thi chiến lược phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh
Việc xây dựng và thực thi chiến lược phát triển du lịch theo hướng TTX giúp phát triển du lịch khoa học, tránh được các hiện tượng phát triển tự phát, kém hiệu quả và thiếu đồng bộ giữa các địa phương trong vùng DHBB. Trên cơ sở định hướng phát triển và tầm nhìn dài hạn cần đưa ra những giải pháp, chương trình, kế hoạch phát triển du lịch xanh đồng bộ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của vùng DHBB. Trong quá trình thực hiện chiến lược, cần phát huy thế mạnh về tài nguyên du lịch biển đảo, hệ sinh thái ngập nước, các giá trị văn hóa gắn với văn minh lúa nước của vùng.
Xây dựng hệ thống tiêu chí và quy trình cấp chứng nhận nhãn dịch vụ du lịch xanh
Để thống nhất trong đánh giá và kiểm soát du lịch xanh, cần xây dựng hệ thống tiêu chí, tiêu chu��n, chỉ số và quy chế, quy trình đánh giá, đo lường dịch vụ du lịch xanh. Đây sẽ là công cụ góp phần thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, sử dụng tài nguyên, năng lượng, góp phần bảo vệ các di sản, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương và phát triển du lịch bền vững.
Nâng cao nhận thức xã hội về phát triển du lịch xanh
Tuyên truyền, phổ biến thông tin và kiến thức, nâng cao nhận thức về phát triển du lịch xanh nhằm thay đổi tư duy về phát triển du lịch trên cơ sở sử dụng hiệu quả tài nguyên du lịch, phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, tiết kiệm nguồn nước, gìn giữ, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm phát thải khí nhà kính, chủ động ứng phó với BĐKH... Để thống nhất ý chí, hành động trong thực thi phát triển du lịch theo hướng TTX cần có sự thống nhất cách hiểu, cách nghĩ và cách làm du lịch xanh cho cơ quan quản lý, chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng địa phương, khách du lịch và các đơn vị liên quan.
Nâng cao năng lực quản lý phát triển du lịch theo hướng TTX
Chính sách thúc đẩy phát triển du lịch cần được xây dựng theo hướng gắn với bảo vệ môi trường, giảm áp lực cho môi trường, đảm bảo cân bằng hài hòa giữa các trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường một cách bền vững. Nâng cao năng lực quản lý phát triển du lịch xanh thông qua thiết lập cơ quan điều phối chung của khu vực DHBB; tăng cường giám sát, kiểm soát quá trình phát triển du lịch xanh; tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư...
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch xanh
Tổ chức nghiên cứu về phát triển du lịch xanh thông qua xây dựng hệ thống lý luận, các đề tài nghiên cứu khoa học, thống kê, xây dựng dữ liệu, dự báo…; tổ chức các khóa đào tạo nhằm trang bị kiến thức về phát triển bền vững, về mô hình TTX một cách có hệ thống để hình thành đội ngũ nhân lực phát triển du lịch xanh chuyên nghiệp. Công tác đào tạo nhân lực gồm cả đội ngũ quản lý nhà nước, quản lý và nhân viên lao động tại các cơ sở du lịch, cộng đồng địa phương nơi phát triển mô hình du lịch xanh, các nhà cung cấp tham gia vào chuỗi cung ứng dịch vụ xanh…
Quản lý hiệu quả việc khai thác, tiêu thụ các nguồn tài nguyên
Những khu vực ngập nước, ven bờ và biển đảo ở vùng DHBB có tính đa dạng sinh học cao, do vậy rất dễ tổn thương trước các tác động của BĐKH và hoạt động sản xuất. Do vậy cần tổ chức quản lý hiệu quả việc khai thác, tiêu thụ các nguồn tài nguyên, quản lý năng lượng, nguồn nước và rác thải thông qua việc tổ chức đánh giá và xây dựng hệ thống dữ liệu về tiềm năng tài nguyên, tác động của môi trường đối với hoạt động du lịch; thực hiện quan trắc môi trường và thu thập, xử lý thông tin; kiểm soát phát sinh khí thải, rác thải, chất thải và xử lý rác thải; sử dụng vật liệu tái chế, vật liệu tự nhiên, vật liệu thân thiện với môi trường; sử dụng hiệu quả quỹ đất; tiết kiệm năng lượng và nước, phát triển năng lượng tái tạo.
Xây dựng các hệ sinh thái cung ứng dịch vụ du lịch xanh
Xây dựng hệ sinh thái xanh: chính sách xanh - chủ trương xanh - cán bộ xanh - nhân viên xanh - doanh nghiệp xanh - điểm đến xanh - cộng đồng xanh - dịch vụ xanh - hành động xanh... để hình thành chuỗi cung ứng xanh khép kín. Tất cả các thành phần tham gia sẽ cùng tương tác tích cực trong một hệ sinh thái chung để tạo ra giá trị xanh, tinh thần xanh cho dịch vụ du lịch. Đặc biệt, việc phát triển du lịch theo hướng TTX cần có sự tham gia của cộng đồng nhằm tạo việc làm và ổn định cuộc sống cho người dân địa phương.
Vùng DHBB gồm 5 tỉnh, thành: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, có diện tích khoảng 12.225km2, dân số gần 8,120 triệu người. Đây là vùng đất giáp biển với tổng chiều dài đường bờ biển khoảng 519km, có diện tích đất ngập nước rộng lớn nên tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét.
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh (2012).
2. Chiến lược Phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (2012).
3. Nguyễn Anh Tuấn (2020), Đề tài KH&CN trọng điểm cấp Bộ: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch Việt Nam theo hướng TTX”, Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch thực hiện (2019 - 2020).
TS. Nguyễn Tư Lương
Nguồn: Tạp chí Du lịch tháng 10/2021