
Lễ hội cầu mưa thường diễn ra vào ngày rằm 15/2 âm lịch hàng năm, để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, trâu bò gà lợn sinh sôi nẩy nở đầy đàn
Người già trong bản kể lại rằng: Chuyện kể ngày xưa phải năm trời hạn hán, đất đai nứt nẻ, sông suối cạn khô, mọi sinh vật trên mặt đất đều không sống được. Người dân muốn làm lễ cầu mưa đến ông trời nhưng lại e ngại, sợ ông Trời nổi giận sẽ phạt. Khi đó, một bà góa đã tình nguyện đứng ra làm người hy sinh, cùng thầy mo đi cầu mưa. Bà nói rằng: nếu ông Trời phạt, bắt phải chết, thì chỉ mong dân bản hãy làm lễ cúng cho bà hàng năm. Sau đó, bà góa cùng các chị em trong bản, thường là những người đã có gia đình và ở tuổi trung niên, ra mó nước thực hiện nghi lễ đầu tiên của lễ cầu mưa. Bà đứng trước mó nước làm lễ cúng thần linh, thổ địa xin cho lấy nước. Sau lễ cúng, bà và các chị em lấy nước và xin phép gánh nước về bản để làm lễ cúng ông trời. Sau lễ cúng, quả nhiên ông trời cho mưa xuống, người dân và sinh linh trên mặt đất thoát khỏi kiếp nạn. Từ đó về sau, hàng năm, người dân thường làm lễ cầu mưa để cầu thần linh cho mưa xuống, cho mùa màng tươi tốt, vạn vật sinh sôi và cũng là để tạ ơn ông trời đã ban mưa thuận gió hòa.

Đặc sắc lễ hội cầu mưa
Lễ hội cầu mưa của người Thái trắng bản Nò Bó 1 lại là một lễ hội thường niên hàng năm. Trước khi diễn ra lễ hội, mỗi gia đình trong bản cùng tham gia công tác chuẩn bị, làm các vật dụng cần thiết cho lễ hội, trang trí cây nêu, chuẩn bị lễ vật để cả bản cùng tổ chức lễ hội cầu mưa.
Lễ hội cầu mưa được tổ chức trên một bãi đất rộng ở đầu bản và dựng một cây nêu theo phong tục với những vật trang trí thể hiện sự khó khăn của cuộc sống do thiếu nước, do thời tiết không thuận lợi…. như những con chim, con ve đan bằng nan, bên cạnh những cái lồng nhỏ đặt trứng gà, vỏ ốc, vỏ trai... Chim và ve là hai loài vật sẽ mang lời khấn của dân bản tới ông Then (ông Trời); vỏ ốc, vỏ trai tượng trưng cho sự khô hạn, nước thiếu đến mức các loài vật sống dưới nước cũng chết.
Khi mặt trời ló rạng, thầy cúng (phải là người thuộc dòng họ Lường, dòng họ lớn nhất của bản) dẫn một bà góa trong bản quẩy đôi gánh buộc những ống bương đựng nước đi tới từng nhà gọi chị em phụ nữ cùng ra mó nước. Khi tới mó nước, thầy cúng làm một lễ cúng thổ địa và thần linh gồm hoa quả, trứng, một con gà, một bộ quần áo của trưởng bản. Lời cúng đơn giản nôm na rằng lâu nay trời khô hạn, cây cối không có nước nên khô héo, vật nuôi ốm yếu, vạn vật không sinh sôi nảy nở được, nay chúng tôi xin phép thổ thần thổ địa được tổ chức lễ cầu mưa.

Sau lễ cúng thổ địa, thầy mo sẽ làm một lễ cúng thứ hai tại mó nước để xin nước. Trong mâm lễ cúng này nhất thiết phải có một con vịt, một con gà, quần áo, hoa quả và đặc biệt là có 6 quả trứng được nhuộm màu (2 quả màu đỏ, 2quả màu vàng và 2 quả màu trắng). Kết thúc lễ cúng cầu mưa, 6 quả trứng được ném vào mó nước, sau đó các bà góa được múc nước đem về.
Khi đoàn cúng lấy nước ở mó về tới nơi diễn ra lễ cầu mưa, những bương nước được dựng quanh cây nêu. Một người đại diện cho ông Then ngồi phía trên, hướng mặt về phía lễ; thầy mo ngồi dưới cùng với những người vừa đi lấy nước ngoài mó nước, dân bản ngồi xung quanh xa xa phía sau. Thầy mo đọc bài cúng kể cho ông Then biết nỗi khổ của dân làng khi không có mưa. Kết thúc bài cúng, ông Then tuyên bố ban nước và cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Ông Then bưng chậu nước đi vòng quanh, vừa đi vừa vẩy nước vào tất cả những người dự lễ. Kết thúc lễ hội cầu mưa, dân bản cùng nhau ca hát, múa xòe và chơi trò chơi dân gian truyền thống... Những trò chơi như ném còn, tung còn, tó má lẹ, những điệu xòe trong tiếng trống hội tưng bừng là dịp để người dân giao lưu, văn hóa của người Thái trắng được bảo tồn và cũng là dịp để giới thiệu nét đẹp văn hóa người Thái đến với những dân tộc khác và du khách trong và ngoài nước.
Thanh Ngọc