Nền xưa dấu cũ
Theo dấu chân của tiền nhân, chúng tôi nối bước tìm về chốn tổ để được kính cẩn nghiêng mình, khâm phục trí tuệ, ý chí và tư tưởng nhân văn của vị vua kiệt xuất thời Trần đã kiên quyết rũ bỏ vinh hoa, phú quý để lên núi tu hành, sống những tháng ngày thanh bạch, an nhiên cùng cỏ cây mây nước. Câu chuyện giữa chúng tôi với sư thầy Thích Thanh Chính tại am Ngọa Vân cứ dài miên man, nhà sư kể rằng: Vua Trần Nhân Tông sau khi đăng quang và hai lần đánh bại giặc Nguyên - Mông xâm lược nước Đại Việt đã truyền lại ngôi báu cho con trai là thái tử Thuyên để chu du khắp nơi ngắm nhìn giang sơn cẩm tú và chọn đất dựng chùa. Ngọa Vân chính là nơi vua chọn để tu hành, hoằng pháp, lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền mang bản sắc riêng của Phật giáo Việt Nam.
.JPG)
Tháp mộ tại Thông Đàn
Một hệ thống các công trình Phật giáo hoang phế trầm mặc, những bia đá, hoa văn kiến trúc, vật liệu xây dựng, chân tảng… thời Trần được phát hiện qua các đợt khai quật khảo cổ học tại núi Ngọa Vân là minh chứng rõ nhất về sự tồn tại và phát triển thịnh vượng của Phật giáo thời bấy giờ. Trước sự đổ nát, lạnh lẽo, khách hành hương bỗng nhiều suy tư. Nếu như Yên Tử sôi động, ồn ào với những đoàn khách bốn phương về đất Phật, thì Ngọa Vân lại hoang vu, tĩnh tại, đi nửa ngày không gặp bóng người. Chưa có cáp treo nên muốn đến đây chỉ còn cách đi bộ qua các lối mòn và dốc núi dựng đứng, cây cối um tùm. Phóng tầm mắt bao quát cả một biển trời mênh mang phía hạ du, đâu đây như vẫn còn tiếng vọng thần kỳ của hồn thiêng sông núi, lại câu thơ của Điều Ngự Giác Hoàng mấy trăm năm trước “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/Non sông nghìn thuở vững âu vàng”.
Trong am Ngọa Vân là tượng Phật Hoàng nhập niết bàn, tuy nhiên theo lời sư thầy thì bức tượng cũ nay không còn, người đời sau đã làm pho tượng mới để thay thế pho tượng cổ đã mất. Thầy còn bảo, nhiều tài liệu sử liệu cổ có ghi chép về sự việc Trần Nhân Tông viên tịch tại am Ngọa Vân, vào năm 1308. Ngoài dấu tích am Ngọa Vân hiện còn hai tòa tháp bằng đá, tháp Phật Hoàng và tháp Đoan Nghiêm.
Trên đường lên am Ngọa Vân, khách hành hương sẽ đến Thông Đàn, nơi có hai tháp mộ nằm cạnh những cây thông cổ thụ với lớp vỏ xù xì, nứt kẽ. Đó là tháp Phụng Phật Pháp và tháp Viên Mãn Chân Giác thiền sư. Tiếp theo là những rừng trúc đều tăm tắp ken dày đặc và hun hút vàng óng. Chùa Ngọa Vân nay đã hoang tàn đổ nát trong đám cỏ dại mọc xung quanh. Thật tiếc rằng do thời gian và sự truy tìm, đào bới cổ vật, châu báu khốc liệt đã khiến ngôi chùa bị đổ nát, nhân dân quen gọi là khu chùa Đổ. Sau này, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều hiện vật, nền móng tại đây.
Thiên nhiên khoáng đạt
Một chuyến đi đầy hứng khởi với gần 3 giờ đồng hồ leo qua 1.750 bậc đá theo lối Thông Đàn, qua chùa Ngọa Vân, lên am Ngọa Vân, hòa mình vào cỏ cây, thác nước, đá núi, ngắm nhìn giang sơn gấm vóc của Tổ quốc. Đó cũng chính là lộ trình khi xưa bậc đế vương lừng danh trong lịch sử - vua Trần Nhân Tông đã đi tới Ngọa Vân, duy chỉ có điều hồi đó chưa có bậc đá như bây giờ, thậm chí đã có lúc con đường này hầu như chẳng ai đi qua nên đã bị mất dấu. Dù ngày nay có lối đi bằng đá nhưng chúng tôi đã đi mải miết để rồi bị lạc đường sang tận khu rừng thuộc đất của xã Lục Sơn, huyện Lục Nam (Bắc Giang) đến chiều tối mới về được vị trí cũ. Thiên nhiên tỏa ngát một màu xanh, bên kia là núi Cô Tiên với hai “bầu ngực” được phủ kín bởi thảm cỏ xanh phơi phới trong gió lộng, bên này là Ngọn Bút với hình thù như một cây viết án ngữ đồ sộ.
.JPG)
Bệ tượng phật hình cánh sen còn xót lại tại am Ngọa Vân
Sư thầy Thích Thanh Chính bảo rằng: Rừng núi nơi này vẫn nguyên sơ, cây cỏ rậm rạp và ít người qua lại, chính vì vậy mà một thời gian dài trước đây khu di tích này đã bị lãng quên, từ ngày thầy lên đây sớm tinh mơ nào cũng được nghe chim chóc ríu rít gọi bầy, tiếng gió reo trong rừng trúc, cảnh sắc chốn thiền giữa rừng sâu, rất thích hợp những ai muốn tìm lại bản ngã. Đường sá cách trở, lâu lắm các thầy mới xuống núi (chỉ khi thực sự có việc hệ trọng), lương thực, đồ ăn thỉnh thoảng có phật tử mang lên, các thầy cũng trồng nhiều rau, cây thuốc quý, rồi hái măng rừng để ăn.
Bao thăng trầm đã qua đi, nhưng chỉ khi “sống chậm” giữa rừng sâu núi thẳm ấy lòng ta mới thấy nhẹ nhàng, bao nhiêu hỷ, nộ, ái, ố bỗng muốn rũ bỏ và cả những tham sân si cũng hết nặng nề. Có lẽ vậy mà hơn 7 thế kỷ trước Trần Nhân Tông đã đề thơ rằng:
“Véo von chim hót, liễu đầy hoa
Thềm vẽ mây in bóng xế tà
Khách đến chẳng bàn chi thế sự
Lan can cùng tựa ngắm trời xa”
(Xuân Canh)
Dù lớp bụi của thời gian đã khiến nhiều tầng văn hóa Phật giáo bị phai nhạt nhưng điều đọng lại với những ai đã từng đến Ngọa Vân là sự kính phục, trân trọng những gì mà tiền nhân đã tạo dựng. Những di chỉ khảo cổ khổng lồ đổ nát giữa đại ngàn, những bia đá, voi đá, ngựa đá bị người ta “xẻ thịt” không thương tiếc càng khiến chúng tôi xót xa, nuối tiếc hơn về một quá khứ vàng son, hưng thịnh của Phật giáo trong giai đoạn lịch sử hơn 700 năm trước. Rất mong rằng vị trí xứng đáng của khu di tích này sẽ được tìm lại trong tương lai không xa, và không lâu nữa du khánh hành hương sẽ biết nhiều hơn đến Ngọa Vân, để muôn đời sau tiếng thơm ấy vẫn còn tỏa ngát.
Kim Sa